Chuyên đề Phương pháp dạy học luyện từ và câu cho học sinh Tiểu học

doc32 trang | Chia sẻ: thuongnguyen92 | Lượt xem: 274 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Chuyên đề Phương pháp dạy học luyện từ và câu cho học sinh Tiểu học, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chủ đề 6
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LUYỆN TỪ VÀ CÂU CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
Hoạt động 1. Phân tích mục tiêu, nhiệm vụ của dạy học
Luyện từ và câu
Thông tin cơ bản
- Chương trình Tiểu học.
- Chuẩn trình độ tối thiểu môn Tiếng Việt ở Tiểu học.
Nhiệm vụ của hoạt động 1
- Đọc tài liệu, thảo luận nhóm làm rõ vai trò của phân môn Luyện từ và câu.
- (Thảo luận nhóm) Xác định và phân tích các nhiệm vụ của dạy học Luyện
từ và câu.
Đánh giá hoạt động 1
1. Nêu vị trí của phân môn Luyện từ và câu.
2. Nêu và phân tích các nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu.
Hoạt động 2. Phân tích các nguyên tắc dạy học Luyện từ và
câu
Thông tin cơ bản
- Tính hệ thống của từ và đặc điểm của từ.
- Bản chất đặc trưng của ngữ pháp, mối quan hệ của hai mặt hình thức - ý
nghĩa ngữ pháp.
Nhiệm vụ của hoạt động 2
- Phân tích nguyên tắc giao tiếp trong dạy học Luyện từ và câu.
- Phân tích nguyên tắc tích hợp trong dạy học Luyện từ và câu.
- Phân tích nguyên tắc trực quan trong dạy học Luyện từ và câu.
- Phân tích nguyên tắc bảo đảm tính hệ thống của từ, câu trong dạy học
Luyện từ và câu.
- Phân tích nguyên tắc bảo đảm tính thống nhất giữa ý nghĩa và hình thức
ngữ pháp trong dạy học Luyện từ và câu.
Đánh giá hoạt động 2
1. Thế nào là bảo đảm nguyên tắc giao tiếp (thực hành) trong dạy học
Luyện từ và câu?
2. Cho một ví dụ để làm rõ việc tuân thủ nguyên tắc tích hợp trong dạy học
Luyện từ và câu.
3. Bảo đảm nguyên tắc trực quan trong dạy học Luyện từ và câu là như thế
nào?
4. Tính hệ thống của từ, câu quy định việc dạy học Luyện từ và câu như thế
nào?
5. Tính thống nhất giữa ý nghĩa và hình thức ngữ pháp quy định việc việc
dạy học Luyện từ và câu như thế nào?
Hoạt động 3. Mô tả, phân tích nội dung dạy học Luyện từ và
câu
Thông tin cơ bản
- Chương trình phần Luyện từ và câu.
- SGK Tiếng Việt từ lớp 2 -> 5.
Nhiệm vụ của hoạt động 3
- Đọc tài liệu, phân tích chương trình Luyện từ và câu.
- Thảo luận tổ, nhận xét, mô tả SGK phần Luyện từ và câu.
- Mô tả các kiểu bài học Luyện từ và câu.
- Phân loại bài tập Luyện từ và câu.
Đánh giá hoạt động 3
1. Chương trình luyện từ và câu được phân bố ở các lớp như thế nào?
2. Liệt kê những khái niệm chương trình Luyện từ và câu cung cấp cho học
sinh và nội dung của những khái niệm đó.
3. Thống kê các chủ đề từ ngữ và các từ ngữ được dạy trong các chủ đề.
4. Trong SGK, nội dung Luyện từ và câu được trình bày theo những kiểu
bài nào? Cách trình bày mỗi kiểu bài ra sao?
5. Nêu căn cứ phân loại và phân loại sơ bộ các bài tập luyện từ và câu thành
các kiểu dạng.
Hoạt động 4. Tổ chức dạy học Luyện từ và câu
Thông tin cơ bản
- Phân môn Luyện từ và câu trong SGK.
- Phân môn Luyện từ và câu trong SGV.
- Một số băng ghi hình giờ dạy Luyện từ và câu.
Nhiệm vụ của hoạt động 4
- Thực hành giải một số bài tập Luyện từ và câu và chỉ dẫn cách giải bài
tập.
- Thiết kế bài dạy Luyện từ và câu.
- Tổ chức dạy học nội dung lí thuyết Luyện từ và câu.
- Tổ chức dạy học thực hành Luyện từ và câu.
Đánh giá hoạt động 4
1. Giải mẫu một số bài tập và chỉ dẫn cho học sinh cách giải (Chú ý lựa
chọn bài tập điển hình cho mỗi kiểu, dạng, chú ý những bài tập khó).
2. Nêu và phân loại các lỗi dùng từ của học sinh, chỉ ra nguyên nhân và
cách chữa.
3. Thống kê, phân loại lỗi câu của học sinh, chỉ ra nguyên nhân và cách
chữa.
4. Việc chọn giải pháp giải nghĩa từ cụ thể phụ thuộc vào những yếu tố nào
?
5. Tập dạy nghĩa một số từ đã đưa ra trong danh mục từ ngữ của các chủ đề.
6. Xây dựng bài tập để luyện từ, câu.
7. Xây dựng bài tập tình huống hướng dẫn học sinh sử dụng các câu hỏi,
câu cầu khiến, câu cảm.
8. Thực hành soạn 3 giáo án dạy Luyện từ và câu (một giáo án cho lớp 2, 3,
một giáo án bài dạy từ ngữ (luyện từ), một giáo án bài dạy ngữ pháp (luyện
câu)).
9. Phân tích các bước tổ chức dạy học một nội dung lí thuyết Luyện từ và
câu.
10. Phân tích các bước tổ chức dạy học nội dung luyện tập Luyện từ và câu.
11. Thực hành dạy học một nội dung lí thuyết Luyện từ và câu lớp 4, 5.
12. Thực hành dạy học một nội dung luyện tập Luyện từ và câu lớp 2, 3.
13. Dự giờ Luyện từ và câu của đồng nghiệp, ghi chép, nhận xét, đánh giá
giờ dạy.
Thông tin phản hồi chủ đề 6
I. Vị trí, nhiệm vụ của dạy học Luyện từ và câu
1. Vị trí của phân môn Luyện từ và câu
Từ và câu có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Từ là
đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Câu là đơn vị nhỏ nhất có thể thực hiện
chức năng giao tiếp. Vai trò của từ và câu trong hệ thống ngôn ngữ quyết
định tầm quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học. Việc dạy
luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hoá làm phong phú vốn từ của học
sinh, cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về từ và câu, rèn cho
học sinh kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các kiểu câu để thể hiện tư
tưởng, tình cảm của mình, đồng thời giúp cho HS có khả năng hiểu các câu
nói của người khác. Luyện từ và câu có vai trò hướng dẫn học sinh trong
việc nghe, nói, đọc, viết, phát triển ngôn ngữ và trí tuệ của các em.
2. Nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu
2.1. Làm giàu vốn từ cho học sinh và phát triển năng lực dùng từ đặt
câu của các em
Nhiệm vụ này bao gồm các công việc sau:
2.1.1. Dạy nghĩa từ: Làm cho học sinh nắm nghĩa từ bao gồm việc thêm
vào vốn từ của học sinh những từ mới và những nghĩa mới của từ đã biết,
làm cho các em nắm được tính nhiều nghĩa và sự chuyển nghĩa của từ. Dạy
từ ngữ phải hình thành những khả năng phát hiện ra những từ mới chưa biết
trong văn bản cần tiếp nhận, nắm một số thao tác giải nghĩa từ, phát hiện ra
những nghĩa mới của từ đã biết, làm rõ những sắc thái nghĩa khác nhau của
từ trong những ngữ cảnh khác nhau.
2.1.2. Hệ thống hóa vốn từ: Dạy học sinh biết cách sắp xếp các từ một
cách có hệ thống trong trí nhớ của mình để tích luỹ từ được nhanh chóng và
tạo ra tính thường trực của từ, tạo điều kiện cho các từ đi vào hoạt động lời
nói được thuận lợi. Công việc này hình thành ở học sinh kĩ năng đối chiếu
từ trong hệ thống hàng dọc của chúng, đặt từ trong hệ thống liên tưởng
cùng chủ đề, đồng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, cùng cấu tạo,
tức là kĩ năng liên tưởng để huy động vốn từ.
2.1.3. Tích cực hóa vốn từ: Dạy cho học sinh sử dụng từ, phát triển kĩ năng
sử dụng từ trong lời nói và lời viết của học sinh, đưa từ vào trong vốn từ
tích cực được học sinh dùng thường xuyên. Tích cực hóa vốn từ tức là dạy
học sinh biết dùng từ ngữ trong hoạt động nói năng của mình.
2.1.4. Dạy cho học sinh biết cách đặt câu, sử dụng các kiểu câu đúng mẫu,
phù hợp với hoàn cảnh, mục đích giao tiếp.
2.2. Cung cấp một số kiến thức về từ và câu
Trên cơ sở vốn ngôn ngữ có được trước khi đến trường, từ những hiện
tượng cụ thể của tiếng mẹ đẻ, phân môn Luyện từ và câu cung cấp cho học
sinh một số kiến thức về từ và câu cơ bản, sơ giản, cần thiết và vừa sức với
các em. Luyện từ và câu trang bị cho HS những hiểu biết về cấu trúc của từ,
câu, quy luật hành chức của chúng. Cụ thể đó là các kiến thức về cấu tạo từ,
nghĩa của từ, các lớp từ, từ loại; các kiến thức về câu như cấu tạo câu, các
kiểu câu, dấu câu, các quy tắc dùng từ đặt câu và tạo văn bản để sử dụng
trong giao tiếp.
Ngoài các nhiệm vụ chuyên biệt trên, Luyện từ và câu còn có nhiệm vụ rèn
luyện tư duy và giáo dục thẩm mĩ cho HS.
II. Các nguyên tắc dạy học Luyện từ và câu
Để dạy Luyện từ và câu một cách có mục đích, có kế hoạch, cần tuân thủ
một số nguyên tắc sau:
1. Nguyên tắc giao tiếp
Việc thay tên gọi hai phân môn “Từ ngữ”, “Ngữ pháp” của chương trình
Tiếng Việt cũ bằng “Luyện từ và câu” ở chương trình Tiếng Việt mới
không chỉ đơn thuần là việc đổi tên mà là sự phản ánh quan điểm giao tiếp
trong dạy học Luyện từ và câu. Nó đòi hỏi việc dạy học từ, câu nằm trong
quỹ đạo dạy tiếng như một công cụ giao tiếp, nhằm thực hiện mục tiêu của
chương trình Tiếng Việt Tiểu học mới: “hình thành và phát triển ở học sinh
kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp
trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi”. Quan điểm giao tiếp chi phối
nội dung chương trình môn Tiếng Việt nói chung cũng như phân môn
Luyện từ và câu nói riêng. Trật tự các khái niệm được đưa ra, “liều lượng”
kiến thức và phương pháp của giờ học Luyện từ và câu đều bị chi phối bởi
quan điểm này.
Nguyên tắc giao tiếp (hay cũng chính là sự vận dụng nguyên tắc thực hành
của lí luận dạy học vào dạy học tiếng mẹ đẻ nên còn gọi là nguyên tắc thực
hành) trong dạy học Luyện từ và câu không chỉ được thể hiện trên phương
diện nội dung mà cả ở phương pháp dạy học.
Về phương pháp dạy học, trước hết, các kĩ năng tiếng Việt phải được hình
thành và phát triển thông qua hệ thống bài tập mang tính tình huống phù
hợp với những tình huống giao tiếp tự nhiên. Chính vì vậy, trong SGK
Tiếng Việt Tiểu học, phần thực hành nhiều, dung lượng lí thuyết ít và khái
niệm được hình thành ở phần lí thuyết cũng ở dạng đơn giản nhất. Như vậy,
nguyên tắc giao tiếp trong dạy Luyện từ và câu đòi hỏi học sinh phải tiến
hành hoạt động ngôn ngữ thường xuyên. Đó là việc yêu cầu thực hiện
những bài tập miệng, bài viết trình bày ý nghĩ, tình cảm, đọc, ứng dụng tri
thức lí thuyết vào bài tập, vào việc giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của ngữ
pháp, tập đọc, chính tả, tập làm văn... Quán triệt nguyên tắc giao tiếp trong
dạy Luyện từ và câu chính là việc hướng đến xây dựng nội dung dạy học
dưới hình thức các bài tập Luyện từ và câu. Để hướng dẫn học Luyện từ và
câu, thầy giáo phải tạo ra hệ thống nhiệm vụ và hệ thống câu hỏi nhằm dẫn
dắt HS thực hiện.
Thứ hai, nguồn cơ bản của dạy từ cần được xem là kinh nghiệm sống của
cá nhân HS và những quan sát thiên nhiên, con người, xã hội của các em.
Việc làm giàu vốn từ, dạy từ phải gắn với đời sống, gắn với việc làm giàu
những biểu tượng tư duy, bằng con đường quan sát trực tiếp và thông qua
những mẫu lời nói. Phải thiết lập được quan hệ đúng đắn giữa hình ảnh
bằng lời (từ ngữ) với những biểu tượng của trẻ em về đối tượng. Mọi quy
luật cấu trúc và hoạt động của từ và câu chỉ được rút ra trên cơ sở nghiên
cứu lời nói sinh động, những kinh nghiệm lời nói và kinh nghiệm sống đã
được bổ sung. Các bài tập Luyện từ và câu phải được xây dựng dựa trên
kinh nghiệm ngôn ngữ của HS.
Thứ ba, dạy học Luyện từ và câu phải bảo đảm sự thống nhất giữa lí thuyết
ngữ pháp và thực hành ngữ pháp với mục đích phát triển các kĩ năng giao
tiếp ngôn ngữ: việc phân tích từ, câu không có mục đích tự thân mà là
phương tiện để nhận diện các phương tiện ngữ pháp, nắm chức năng của
chúng, từ đó sử dụng chúng trong lời nói. Chương trình hướng đến gắn lí
thuyết với thực hành. Trên quan điểm thực hành, các tác giả SGK đã chọn
những giải pháp ngôn ngữ có nhiều lợi thế nhất trong sử dụng tiếng mẹ đẻ.
Đối chiếu nội dung từng khái niệm ngữ pháp được dạy ở Tiểu học với các
khái niệm được trình bày trong các giáo trình Việt ngữ học, ta thấy rằng nội
dung những khái niệm ở Tiểu học như từ, câu... đều được đưa ra ở dạng
đơn giản nhất.
Chương trình nặng về thực hành nên bên cạnh hệ thống khái niệm được
trình bày một cách đơn giản lại rất chú trọng dạy hệ thống quy tắc ngữ
pháp. Quy tắc ngữ pháp là những điều phải tuân theo để tạo nên những đơn
vị ngữ pháp cụ thể nhằm thực hiện nhiệm vụ giao tiếp (nói, viết) nào đó. Hệ
thống quy tắc ngữ pháp giúp HS chuyển từ nhận thức sang hành động. Ví
dụ, liên quan đến các khái niệm câu có các quy tắc chính tả, dấu chấm câu,
viết hoa chữ cái đầu câu, quy tắc nói, đọc: nói, đọc hết câu phải nghỉ hơi,
đọc đúng giọng điệu phù hợp với các kiểu câu chia theo mục đích nói. Liên
quan đến danh từ riêng có quy tắc viết hoa tên riêng... Như vậy, tính quy
luật của ngữ pháp đã được phản ánh trong ngữ pháp thực hành bằng hệ
thống quy tắc. Tương ứng với khái niệm ngữ pháp có một loạt các quy tắc.
Trong chương trình Tiểu học, quy tắc ngữ pháp có vai trò rất quan trọng.
Dựa vào sự phân tích ngôn ngữ, SGK nêu các quy tắc trong mục “Ghi
nhớ”. Do ưu tiên thực hành nên đã có những trường hợp bỏ qua lôgic và
tính cân đối của lí thuyết. Ví dụ, danh từ riêng dạy trong nhiều bài để trang
bị quy tắc viết hoa cho HS.
2. Nguyên tắc tích hợp
Không có vốn từ phong phú, không hiểu nghĩa và đặc điểm ngữ pháp của từ
thì không thể đặt câu đúng, đồng thời, nếu không nắm vững quy tắc đặt câu
thì dù có vốn từ phong phú, dù nắm chắc nghĩa của từ vẫn không trình bày
được ý kiến của mình một cách đúng đắn, mạch lạc, rõ ràng. Vì vậy luyện
từ và luyện câu không thể tách rời. Bên cạnh đó, các bộ phận của chương
trình Luyện từ và câu như từ, cấu tạo từ, từ loại, câu, các thành phần câu,
các kiểu câu và liên kết câu cũng phải được nghiên cứu trong sự gắn bó
thống nhất.
Mặt khác, ta đã biết lượng từ, mẫu câu và các câu nói cụ thể HS thu nhận
được trong giờ Luyện từ và câu là rất nhỏ so với lượng từ, mẫu câu thu
nhận được trong các giờ học khác, trong các hoạt động ngoài giờ học cũng
như rất nhỏ so với vốn từ, vốn câu cần có của các em. Do đó không thể dạy
từ và câu bó hẹp trong tiết Luyện từ và câu mà cần đề ra nguyên tắc tích
hợp trong dạy từ, câu. Nguyên tắc này đòi hỏi việc dạy Luyện từ và câu
phải được tiến hành mọi nơi, mọi lúc ngoài giờ học, trong tất cả các môn
học, trong tất cả các giờ học khác của các phân môn Tiếng Việt. Không
phải chỉ trong giờ học Tiếng Việt mà trong tất cả các hoạt động khác và
trong các giờ học khác, giáo viên cần chú ý điều chỉnh kịp thời những cách
hiểu từ sai lạc, những cách nói, viết câu không đúng ngữ pháp của HS, kịp
thời loại ra khỏi vốn từ tích cực của HS những từ ngữ không văn hoá.
Tất cả các môn học và các phân môn Tiếng Việt đều có vai trò to lớn trong
việc luyện từ và câu. Chúng mở rộng sự hiểu biết về thế giới, con người,
góp phần làm giàu vốn từ và khả năng diễn đạt tình cảm, tư tưởng của HS.
Để nắm bất kì môn học nào: Toán, Tự nhiên - Xã hội, Đạo đức..., HS phải
nắm vốn từ và mẫu câu tối thiểu của môn học đó. Đó là những từ ngữ và
cách trình bày có tính chất chuyên ngành. Chúng sẽ bổ sung cho vốn tiếng
mẹ đẻ của HS. Người giáo viên khi dạy tất cả các môn học đều phải có ý
thức gắn với dạy từ và câu. Trên lớp cũng như khi hướng dẫn các hoạt động
khác cho HS: tham quan, hoạt động tập thể, ngoại khoá v.v..., giáo viên cần
dạy HS phát hiện ra các từ mới, tìm hiểu nghĩa và cách sử dụng chúng
trong câu, đoạn. Việc hoàn thiện những từ này sẽ được tiếp tục trong giờ
Luyện từ và câu.
3. Nguyên tắc trực quan
Những hình ảnh cảm tính, những biểu tượng của trẻ em về thế giới xung
quanh là một tổ hợp cần thiết cho bất kì việc dạy học nào. Quan điểm này
là cơ sở của nguyên tắc trực quan. Nguyên tắc trực quan được xây dựng
còn dựa vào sự thống nhất giữa trừu tượng và cụ thể trong ngữ pháp. Đặc
điểm của việc vận dụng nguyên tắc trực quan trong dạy từ là ở chỗ: từ là
một tổ hợp kích thích nghe, nhìn, vận động, cấu âm. Một quy luật tâm lí là
càng có nhiều cơ quan cảm giác tham gia vào việc tiếp nhận đối tượng
(hiện tượng) thì càng ghi nhớ một cách chắc chắn đối tượng ấy, có nghĩa là
càng ghi nhớ cả từ mà nó biểu thị, do đó, khi giải nghĩa từ, trong phạm vi
có thể, cần sử dụng các phương tiện tác động lên các giác quan. Thực hiện
nguyên tắc trực quan trong việc dạy nghĩa từ là cần làm sao trong giải
nghĩa, việc tiếp nhận của HS không phiến diện mà hình thành trên cơ sở
của sự tác động qua lại của những cảm giác khác nhau: nghe, nhìn, phát
âm, viết. Giai đoạn đầu, khi giới thiệu cho HS một từ mới, một mặt cần
phải đồng thời tác động bằng cả kích thích vật thật và bằng lời. Mặt khác
HS cần nghe, nhìn, phát âm và viết từ mới, đồng thời phải để HS nói thành
tiếng hoặc nói thầm điều các em quan sát được. Giáo viên cần giúp các em
biểu thị thành lời, thành từ ngữ tất cả những gì đã quan sát. Vì vậy, quán
triệt nguyên tắc trực quan, ở một khía cạnh nào đó cũng đồng thời đã tuân
thủ nguyên tắc thực hành.
Đối tượng nghiên cứu của Luyện từ và câu là từ ngữ, câu, thành phần câu
v.v... Do đó, bên cạnh biểu bảng, sơ đồ, vật thật, tranh vẽ... như người ta
vẫn thường quan niệm về đồ dùng trực quan trong giờ học, trực quan trong
giờ dạy Luyện từ và câu còn được hiểu là sử dụng những ngữ liệu (lời nói)
trực quan - những bài văn, những câu, những từ.
Trong các giai đoạn khác nhau của dạy Luyện từ và câu, cần phải sử dụng
trực quan với mục đích khác nhau: giai đoạn đầu, khi cho HS tiếp xúc với
các dấu hiệu của khái niệm, trực quan phải được sử dụng với mục đích
truyền đạt rõ ràng những dấu hiệu của hiện tượng nghiên cứu trong sự biểu
hiện cụ thể của nó trong lời nói. Phải chọn tài liệu trực quan sao cho chúng
thể hiện rõ đặc điểm ngữ pháp của hiện tượng được nghiên cứu. Có như
vậy, trực quan mới giúp HS có khả năng trừu tượng hoá dấu hiệu của khái
niệm, nhận diện ra hiện tượng nghiên cứu giữa những hiện tượng khác
tương tự chúng. Khi ngữ liệu không tiêu biểu, nghĩa là không truyền đạt rõ
ràng dấu hiệu của hiện tượng nghiên cứu thì bị xem là không đảm bảo
nguyên tắc trực quan. Ví dụ, khi dạy hai thành phần câu lại chọn câu có
trạng ngữ, khi dạy trạng ngữ lại đưa cả ví dụ câu có thành phần biệt lập
hoặc phân tích trên một trường hợp ngoại lệ, không tiêu biểu như dạy động
từ đưa ngay động từ tồn tại “có”, dạy khái niệm câu đưa ngay câu đặc biệt.
Sau khi HS đã nắm khái niệm, trực quan có mục đích giúp HS củng cố, hệ
thống hoá lại các kiến thức ngữ pháp. Đó là những bảng biểu, sơ đồ thường
dùng trong các giờ ôn tập. Bảng biểu, sơ đồ có tác dụng tiết kiệm thời gian
giảng giải, gây ấn tượng, giúp đưa kiến thức đã biết vào một trật tự nhất
định, dễ nhớ, giúp cho HS có một cái nhìn bao quát, hệ thống, dễ nhận ra
lôgíc của vấn đề. Ngoài ra, bảng biểu, sơ đồ trong giờ ôn tập luyện từ và
câu còn tăng cường rèn luyện tư duy lôgíc cho HS. Có thể sử dụng bảng
biểu, sơ đồ có sẵn, cũng có thể để HS tự xây dựng bảng biểu, làm như vậy,
HS sẽ tích cực làm việc với tài liệu, dễ dàng ghi nhớ các dấu hiệu của khái
niệm, vừa nắm được quá trình tạo ra và cấu trúc của bảng biểu.
Ngoài các nguyên tắc chung, trong dạy học Luyện từ và câu còn có những
nguyên tắc đặc thù. Đó là nguyên tắc bảo đảm tính hệ thống của từ, câu
trong dạy học Luyện từ và câu và nguyên tắc bảo đảm tính thống nhất giữa
nội dung và hình thức ngữ pháp trong dạy học Luyện từ và câu.
4. Nguyên tắc bảo đảm tính hệ thống của từ, câu trong dạy học
Luyện từ và câu
Những thành tựu nghiên cứu trong Ngôn ngữ học về bản chất nghĩa của từ,
cấu tạo từ, các lớp từ, bản chất cấu tạo của câu, các kiểu câu, liên kết câu là
cơ sở để dạy các bài lí thuyết về từ, câu. Chúng ta cần nắm được và cho học
sinh từng bước làm quen với các khái niệm nghĩa của từ, tính nhiều nghĩa,
đồng nghĩa, trái nghĩa, cấu tạo câu, các kiểu câu. Mặt khác, dựa vào kiến
thức từ vựng học, người ta đã xác lập những nguyên tắc để dạy từ theo
quan điểm thực hành, hay nói cách khác, làm giàu vốn từ cho học sinh. Dạy
từ nhất thiết phải tính đến đặc điểm của từ như một đơn vị ngôn ngữ: quan
hệ trực tiếp của từ với thế giới bên ngoài. Việc dạy từ cần phải trình bày
như là việc thiết lập quan hệ giữa từ và các yếu tố của hiện thực, quan hệ
giữa từ với một lớp sự vật cùng loại được biểu thị bởi từ. Đó là hai mặt
hình thức và nội dung của tín hiệu từ. Hai mặt này gắn chặt với nhau, tác
động lẫn nhau. Phải làm cho học sinh nắm vững hai mặt này và mối tương
quan giữa chúng. Học sinh vừa phải thiết lập được mối quan hệ của các từ
với sự vật, một lớp sự vật, mặt khác lại phải phải tách được ý nghĩa từ vựng
của từ khỏi vật được từ gọi tên. Đồng thời dạy từ nhất thiết phải tính đến
những quan hệ ý nghĩa của từ với những từ khác bao quanh trong các
phong cách chức năng khác nhau (tính đến khả năng kết hợp của từ). Chính
vì vậy, đặc điểm của từ trong hệ thống ngôn ngữ là cơ sở để xây dựng các
bài tập từ ngữ. Sự hiểu biết về nghĩa từ, đặc điểm của từ trong hệ thống sẽ
giúp cho nhà sư phạm xác lập được mục đích, nội dung cũng như kĩ thuật
xây dựng từng bài tập từ ngữ cụ thể. Giá trị của từ trong hệ thống sẽ là chỗ
dựa để xem xét, đánh giá tính khoa học cũng như hiệu quả của một bài tập
từ ngữ.
Từ đặc điểm tính hệ thống của ngôn ngữ, trong dạy học Luyện từ và câu,
ngoài các nguyên tắc chung, người ta còn đề xuất một nguyên tắc dạy học
có tính chất đặc thù, đó là nguyên tắc “Bảo đảm tính hệ thống của từ trong
dạy học từ ngữ (luyện từ)”. Nguyên tắc này đòi hỏi việc “luyện từ” phải
tính đến đặc điểm của từ trong hệ thống ngôn ngữ. Như vậy, trong sự tương
ứng với những đặc điểm đã nêu của từ, khi dạy từ cần phải:
4.1. Đối chiếu từ với hiện thực (vật thật hoặc vật thay thế) trong việc giải
nghĩa từ (nguyên tắc ngoài ngôn ngữ).
4.2. Đặt từ trong hệ thống của nó để xem xét, nghĩa là đặt từ trong các lớp
từ, trong các mối quan hệ đồng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, cùng
chủ đề v.v... (nguyên tắc hệ hình).
4.3. Đặt từ trong mối quan hệ với những từ khác xung quanh nó trong văn
bản với mục đích làm rõ khả năng kết hợp của từ (nguyên tắc cú đoạn).
4.4. Chỉ ra việc sử dụng từ trong một phong cách xã hội (nguyên tắc chức
năng).
Hai việc làm đầu cần thiết cho dạy nghĩa từ, hai việc làm sau cần thiết cho
việc dạy sử dụng từ.
Cũng như vậy, việc dạy câu: hiểu nghĩa câu, nói, viết câu phải đặt trong
ngữ cảnh, trong văn bản để luyện tập, để đánh giá đúng/sai, hay/dở. Chú ý
đến đặc điểm của từ, câu trong hệ thống được xem là một nguyên tắc quan
trọng trong dạy học Luyện từ và câu.
5. Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất giữa nội dung và hình thức
ngữ pháp trong dạy học Luyện từ và câu
Khái niệm ngữ pháp mang tính trừu tượng và khái quát cao. Dạy học phải
chỉ ra được nội dung của khái niệm - ý nghĩa, chức năng, lí do tồn tại của
khái niệm trong hệ thống, bởi vì đó là bản chất của khái niệm, lẽ sống còn
của nó. Nhưng nội dung ngữ pháp bao giờ cũng trừu tượng, nhất là đối với
học sinh nhỏ. Ví dụ, những cách nói “danh từ chỉ sự vật, hiện tượng”, “từ
có nghĩa, tiếng có thể không có nghĩa”, v.v rất khó nắm bắt, nhận dạng.
Đây là nguyên nhân gây ra những khó khăn của học sinh nhỏ trong quá
trình hình thành khái niệm. Để nắm bắt khái niệm ngữ pháp, cần có trình độ
tư duy lôgic nhất định.
Quá trình hình thành khái niệm cũng đồng thời là quá trình học sinh nắm
những thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá, trừu
tượng hoá và cụ thể hoá. Hiệu quả của việc hình thành khái niệm phụ thuộc
vào trình độ phát triển của hoạt động trừu tượng của tư duy. Những học
sinh gặp khó khăn trong việc tách ý nghĩa ngữ pháp của từ ra khỏi ý nghĩa
từ vựng của nó, không đối chiếu được từ và tập hợp chúng trong một nhóm
theo những dấu hiệu ngữ pháp bản chất sẽ gặp khó khăn trong việc hình
thành khái niệm và sẽ bị mắc lỗi. Ví dụ, khi nghiên cứu động từ, học sinh
biết động từ là từ chỉ hoạt động của người, loài vật, sự vật. Trong ngữ pháp,
hoạt động không chỉ được hiểu là chuyển động mà còn phải được hiểu là
tình trạng của sự vật, quan hệ của nó đối với các sự vật khác, sự biến đổi
chất lượng sự vật Ví dụ: ngủ, nghỉ, yêu, phát triển, Một cách hiểu như
vậy là khó đối với học sinh nhỏ vừa mới nghiên cứu ngôn ngữ, bởi những
biểu tượng cụ thể của các em về hoạt động gắn liền với sự chuyển động. Vì
thế, giai đoạn đầu khi nghiên cứu về động từ, phần lớn học sinh không xem
những từ như ngủ, ốm, đứng là biểu thị hoạt động của đối tượng. Hiện
tượng tương tự cũng gặp khi nghiên cứu về danh từ. Nhiều học sinh không
thể tách khỏi ý nghĩa từ vựng cụ thể của những từ như “sự dũng cảm”,
“nỗi lòng”, “tiếng kêu”, “bước chân”, nên không xem chúng là danh từ.
Để giảm bớt những khó khăn trên, một mặt, các lí thuyết về từ, câu ở Tiểu
học được hình thành theo hai giai đoạn. ở lớp 2, 3 chỉ đưa ra những dấu
hiệu hướng học sinh chú ý làm quen với khái niệm và thường không nêu
thuật ngữ (ví dụ: danh từ, động từ, tính từ, chủ ngữ, vị ngữ), không hướng
đến trình bày các nội dung lí thuyết. Đầu tiên, chỉ để học sinh nhận ra
những dấu hiệu dễ nhận, đập vào trực quan của các em, lần sau sẽ hướng
vào những dấu hiệu mới, dần dần mở ra toàn bộ nội dung khái niệm. Ví dụ,
khái niệm danh từ được dạy ở lớp 2, 4.
Mặt khác, trong dạy học Luyện từ và câu, lúc nào cũng phải xác lập mối
quan hệ giữa ý nghĩa và hình thức ngữ pháp, phải luôn giúp học sinh nhận
ra ý nghĩa và các dấu hiệu hình thức của hiện tượng ngữ pháp được nghiên
cứu và chức năng của nó trong lời nói. Mỗi nội dung ý nghĩa đều có một
hình thức tương ứng, nghĩa là nội dung được cố định lại trong một hình
thức nhất định và hình thức này có thể nắm bắt được. Khái niệm được lĩnh
hội trong sự thống nhất của nội dung và hình thức mới chắc chắn. Ví dụ,
làm cho học sinh ý thức được danh từ là toàn bộ các từ chỉ người, vật, sự
vật, có dấu hiệu hình thức trả lời được cho câu hỏi “Ai”, “Cái gì”, thường
làm chủ ngữ trong câu đơn hai thành phần; động từ là từ chỉ hoạt động, trả
lời cho câu hỏi: “Làm gì”, thường làm vị ngữ trong câu đơn hai thành phần;
tính từ là toàn bộ các từ chỉ tính chất của sự vật, trả lời cho câu hỏi “Như
thế nào”; hình thức cấu tạo của từ và ý nghĩa của chúng, hình thức và ý
nghĩa của câu, hình thức và chức năng của các kiểu câu. Cần triệt để sử
dụng các câu 

File đính kèm:

  • docPHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LUYỆN TỪ VÀ CÂU HỌC SINH TIỂU HỌC.doc