Thiết kế giáo án môn toán theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học

doc12 trang | Chia sẻ: dethi | Lượt xem: 5366 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thiết kế giáo án môn toán theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phòng GD - ĐT Thuận Thành 
Thiết kế giáo án môn toán
theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học
Ngành giáo dục Thuận Thành là một đơn vị triển khai khá sớm việc đổi mới PPDH và đã có những kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Nhìn chung giáo viên đã có những đổi mới về nhận thức, nắm được những đặc trưng của PPDH mới, bước đầu tích luỹ được một số kinh nghiệm. Tuy nhiên vẫn còn không ít giáo viên lúng túng trong khâu soạn giáo án, cách tổ chức các hoạt động nhận thức cho học sinh, giải quyết các tình huống nảy sinh trong quá trình lên lớp, nhất là các giáo viên năng lực hạn chế và giáo viên mới ra trường. 
 Qua thực tế chỉ đạo và dự giờ thăm lớp, chúng tôi đưa ra một số ý kiến về cách thiết kế một giáo án và tổ chức các hoạt động nhận thức của học sinh nhằm nâng cao hiệu quả giờ lên lớp.
A- những vấn đề chung
I- kết cấu của một giáo án : 
Tuỳ theo đặc trưng của từng loại bài khác nhau, lớp học khác nhau để thiết kế giáo án cho phù hợp. Nhìn chung một giáo án tốt theo tinh thần đổi mới phải là giáo án hướng tới HS, lấy HS làm trung tâm . Học sinh với vai trò chủ động phải được làm việc nhiều hơn (làm việc trực tiếp với các bài toán, các tình huống có vấn đề, với các dụng cụ học tập như thước đo góc, com pa...), được nghĩ nhiều hơn (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, tư duy rút ra kết luận), được nói nhiều hơn (trao đổi với bạn, với thầy, phát biểu nhận thức của mình về nội dung bài học)... Giáo viên với vai trò chủ đạo phải là người tổ chức hướng dẫn, điều khiển các hoạt động, là người cung cấp thông tin, là trọng tài trong các buổi thảo luận ... để hướng tới mục tiêu bài học đề ra.
	Qua thực tế chỉ đạo và dạy học trên lớp, theo sự chỉ đạo của Phòng GD&ĐT Thuận Thành. chúng tôi đưa ra một mô hình giáo án gồm những phần cứng như sau:
	I- Mục tiêu bài học.
	II- Chuẩn bị tài liệu, đồ dùng.
	III- Tiến hành bài mới: 
- Tổ chức sơ bộ lớp học, vào bài, thiết kế các hoạt động dạy và học, thông thường phần này được chia thành các cột như sau:
t,
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
Nội dung ghi bảng

Hoạt động 1:..............
(Có thể là kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới)
Các hoạt động của học sinh
Các nội dung cần ghi bảng và học sinh phải ghi

Hoạt động 2:..............
Các hoạt động của học sinh
Các nội dung cần ghi bảng và học sinh phải ghi

.....
......
......

Hoạt động : Luyện tập.
Các hoạt động của học sinh
Các nội dung cần ghi bảng và học sinh phải ghi

Hoạt động : Củng cố - HDVN.
Các hoạt động của học sinh
Các nội dung cần ghi bảng và học sinh phải ghi
	* Lưu ý: ( có thể tách riêng phần luyện tập, củng cố và hướng dẫn về nhà thành các phần riêng như sau).
 IV- Luyện tập - Củng cố.
- Luyện tập bài nào, câu nào, làm như thế nào.
- Giáo viên chú ý luyện tập theo mục tiêu bài học, đặc biệt là phần trọng tâm bài học, luyện tập từ dễ đến khó ( Các bài tập áp dụng ngay lý thuyết, sau đó đến các bài cần tư duy lôgich kiến thức cũ và mới).
	V- Hướng dẫn bài tập về nhà. 
- Về nhà học phần nào, làm bài nào, câu nào (giáo viên hướng dẫn học sinh làm các bài khó, hoặc bài liên quan đến kiến thức trọng tâm ).
II- yêu cầu chi tiết của từng phần:
Yêu cầu chung của việc thiết kế một giáo án là:
	- Xác định rõ được mục tiêu của bài học, kiến thức trọng tâm của bài.
	- Xác định rõ con đường hình thành kiến thức, lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp. Chú ý phương pháp dạy học “ Đặt - Giải quyết vấn đề”, phương pháp chia nhóm, khi thiết kế giáo án cần thể hiện rõ: (Tình huống đưa ra phải là tình huống có vấn đề, đề xuất cách giải quyết vấn đề đó, kết luận vấn đề đưa ra và làm nảy sinh tình huống có vấn đề mới ví như việc chuyển ý trong nội dung bài học).
	- Tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh như suy diễn, đo đạc, cắt gấp từ đó đoán nhận, tiếp nhận kiến thức, thể hiện, tái hiện , củng cố kiến thức...
	- Xác định các hình thức hoạt động đối với học sinh ( hoạt động tập thể, hoạt động độc lập, chia nhóm...).
	- Xác định các đơn vị kiến thức học sinh phải tự học, tự tìm hiểu và tự mình rút ra kiến thức.
	- Chi tiết yêu cầu của từng phần như sau:
Mục tiêu bài học: 
Cần xác định rõ mục tiêu về kiến thức, rèn luyện kĩ năng; , thái độ, mục tiêu bồi dưỡng năng lực nhận thức, phẩm chất tư duy, vận dụng kĩ năng vào thực tiễn. Cũng có thể xác định mục tiêu chung cho cả lớp và mục tiêu riêng cho một số nhóm học sinh đặc biệt ( HSG, HSY). 
Tóm lại ngoài mục tiêu bài học mà SGK và SGV đã xác định, GV cần điều chỉnh sao cho mục tiêu bài học phải cụ thể, sát với yêu cầu của chương trình, phù hợp với trình độ học sinh, với hoàn cảnh và điều kiện dạy học của từng địa phương, giúp GV định hướng tốt cho bài giảng. 
 2- Chuẩn bị tài liệu, đồ dùng, phương tiện dạy học:
	Để chuẩn bị tốt một giờ dạy, giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ tài liệu, đồ dùng, phương tiện dạy học có liên quan đến bài học. Đây là yêu cầu bắt buộc và GV cần phải có ý thức chuẩn bị thường xuyên, biết làm thêm những DDDH chưa có hoặc thấy cần thiết( bảng phụ, phiếu học tập...), hướng dẫn học sinh sử dụng thành thạo các dụng cụ để vẽ hình, đo đạc...
Tiến trình bài mới: 
Về các khâu bước của quá trình lên lớp, ở đây chúng ta chỉ coi là tương đối, tuyệt nhiên không áp đặt một cách máy móc. Thí dụ như khâu ổn định tổ chức lớp và kiểm tra không nhất thiết chỉ làm vào đầu giờ mà trong thực tế phải tiến hành trong suốt cả tiết dạy.
Như trên đã trình bày, tuỳ theo từng bài, từng lớp học và bản lĩnh sư phạm của từng GV mà thiết kế giáo án cho phù hợp về nội dung cũng như cách trình bày. Song cần thống nhất một số vấn đề chung sau đây:
a) Tổ chức sơ bộ lớp học: 
b) Giới thiệu bài mới: 
c) Thiết kế các hoạt động của thầy và trò:
Giáo viên dựa vào nội dung của bài mới trong SGK, tham khảo SGV và các tài liệu khác để thiết kế các hoạt động của thày và trò, mỗi hoạt động tương ứng với một nội dung của bài, song không nên qúa phụ thuộc vào SGK, tài liệu mà cần chủ động sáng tạo chuyển hoá thành cách làm riêng của mình cho phù hợp với từng đối tượng học sinh cụ thể.
Mỗi một hoạt động, mỗi một nội dung khi thiết kế cần chú ý các vấn đề sau:
- Xác định kiến thức trọng tâm cần đạt được. Xác định các kĩ năng cần hình thành, cần rèn luyện cho học sinh. Có thể có những phần học sinh phải tự học.
- Xác định các vấn đề cần giải quyết, xây dựng hệ thống các câu hỏi phù hợp, dự kiến các phương án giải quyết một vấn đề, dự kiến các tình huống và cách xử lí. Dự kiến các kết luận cho từng phần và các câu chuyển từ ý này sang ý kiến nhằm gây hứng thú cho học sinh. Dự kiến thời gian cho từng hoạt động.
- Chuẩn bị các phiếu học tập nếu thấy cần thiết, các đê bài, các câu hỏi để kiểm tra đánh giá. . Dự kiến các hình thức học tập, các phương pháp dạy học phù hợp. Dự kiến cách trình bày: Kẻ cột, nội dung ghi trong giáo án, phần ghi trên bảng... cho cụ thể rõ ràng.
*Lưu ý: áp dụng phương pháp dạy học nào thì cần tuân thủ qui trình và tập hợp các kĩ thuật tương ứng của phương pháp dạy học đó ( dạy học nhóm phải giao việc cho các nhóm làm việc, dạy học nêu ván đề phải nêu được tình huống có vấn đề cho học sinh....).
Luyện tập - Củng cố:
Giáo viên cần xác định đúng những kiến thức và kĩ năng cần luyện tập, củng cố theo mục tiêu bài học đề ra. Chú trọng mục tiêu bồi dưỡng năng lực nhận thức, tư duy, năng lực tự học và rèn luyện các kĩ năng học tập, kĩ năng vận dụng vào thực tiễn, khả năng ứng dụng linh hoạt từ kiến thức bài học để giải quyết một vấn đề trong thực tiễn.
- Luyện tập, củng cố phải đảm bảo đủ các yêu cầu: từ thấp tới cao, từ dễ đến khó, đảm bảo tính đa dạng hệ thống và tuân theo qui trình: Xác định rõ nhiệm vụ - Hướng dẫn gợi ý phương hướng, định hướng chung để giải quyết nhiệm vụ - Làm mẫu- Tổ chức luyện tập (xây dựng nhiều hình thức luyện tập khác nhau).
Hướng dẫn HS học ở nhà:
Giáo viên cần giành thời gian cần thiết để hướng dẫn học sinh học ở nhà theo hướng: Giao nhiệm vụ cho học sinh (làm bài tập cũ, đọc và chuẩn bị bài mới ... nên có bài tập dễ và khó, yêu cầu từ đơn giản đến phức tạp), hướng dẫn gợi ý các vấn đề khó, hướng dẫn phương pháp tự học.
III- tổ chức, điều khiển các hoạt động nhận thức của học sinh trong giờ học:
	Trong thực tế, tổ chức dạy học theo giáo án đã thiết kế thành công đến mức độ nào là phụ thuộc vào kinh nghiệm và năng lực sư phạm của từng giáo viên. Nhìn chung, trong giờ dạy GV cần phải quan tâm tới sự tương tác giữa ba yếu tố: Hoạt động của thầy (chủ đạo), hoạt động của trò (chủ động) và môi trường sư phạm (môi trường hướng tới người học).
1- Tổ chức sơ bộ lớp học:
Các vấn đề thông thường như chào hỏi, kiểm tra sĩ số, vệ sinh lớp học, việc chuẩn bị và tư thế học tập của học sinh ... thường diễn ra nhanh chóng xong không thể thiếu được và phải đạt được các yêu cầu: Tạo không khí thân mật cởi mở, tạo tâm thế sẵn sàng học tập cho học sinh, kiên quyết không tiến hành bài dạy khi lớp học còn ồn ào, mất trật tự.
2- Vào bài:
Có thể coi đây là khâu “khởi động” nhằm tập trung sự chú ý của học sinh vào bài học. Có nhiều cách vào bài (nêu một vấn đề, đưa ra bài tập mà việc giải quyết nó sẽ dẫn đến kiến thức mới của bài học, nêu một vấn đề thực tế ... có liên quan đến nội dung bài học), song cần đạt được các yêu cầu: tạo ấn tượng, tập trung sự chú ý, tạo hứng thú học tập, đưa học sinh vào tình huống có vấn đề.
3- Tổ chức điều khiển các hoạt động học tập:
Nếu thiết kế giáo án theo phương pháp và hình thức dạy học nào thì GV tổ chức điều khiển các hoạt động theo phương pháp và hình thức dạy học đó. Cần quan tâm đến một số vấn đề chính sau:
 1.3- Tạo hứng thú học tập: Giáo viên phải cho HS độc lập tìm tòi, độc lập làm, nói và nghĩ, luôn tạo ra những tình huống có vấn đề. Cần biết tạo ra các mối quan hệ Thầy - Trò, Trò - Trò chan hoà, dân chủ, cởi mở tạo ra không khí vui vẻ và niềm mong đợi đến giờ học.
 2.3- Giao nhiệm vụ cho học sinh: Giáo viên phải thường xuyên giao nhiệm vụ cho học sinh để các em được làm nhiều, nói nhiều, nghĩ nhiều (Một trong những nguyên nhân HS mất trật tự trong giờ học là đầu, tay, mắt của các em không có việc làm). Các nhiệm vụ cần được chuẩn bị sẵn, các yêu cầu phải rõ ràng, cần giành thời gian cho HS được suy nghĩ rồi mới yêu cầu trả lời hoặc báo cáo kết quả. Tránh việc giao nhiệm vụ hay nêu vấn đề, câu hỏi một cách hình thức rồi yêu cầu học sinh trả lời ngay. Hãy biết giành thời gian cho các hoạt động bên trong của học sinh, từng bước xây dựng nề nếp, thói quen, cách học cho HS.
 3.3- Chỗ đứng của giáo viên: GV nên đứng ở vị trí thuận lợi để quan sát toàn bộ lớp học và chỉ dẫn HS quan sát nhìn rõ ĐDDH, cũng có thể đi xuống dưới lớp để kiểm tra, xem xét uốn nắn việc học của HS song khi nói cần phải giao diện với HS, tránh nói khi GV quay mặt vào bảng hoặc đứng thiếu tính sư phạm.
 4.3- Ngôn ngữ, giọng nói, nhịp độ nói: Ngôn ngữ nói phải chính xác, giản dị, tránh các từ khoa trương, cầu kì. Giọng nói nên truyền cảm, rõ ràng và có nhịp điệu, phải quan sát HS để điều chỉnh nhịp độ nói. Những phần khó, những qui tắc, định nghĩa, kết luận; các tài liệu mới cần nói chậm hơn. Nhìn chung nên nói ít, nói đủ và đúng lúc.
 5.3- Xử lí tình huống: Có 2 loại tình huống: nảy sinh từ công tác tổ chức lớp (HS vào lớp muộn, mất trật tự, các sự cố thuộc phòng học...); nảy sinh từ nội dung bài học (các ý kiến từ khâu điều hành HS, các ý kiến đúng sai, trái ngược nhau hoặc không có ý kiến...). Nhìn chung nên có phương án dự kiến chuẩn bị trước là tốt nhất. Xử lí tình huống cần tế nhị, tinh tế, tôn trọng HS, giữ bầu không khí học tập, tránh làm mất hứng thú học tập của HS. Các tình huống ngoài phương án có sẵn hoặc phát sinh cần bình tĩnh xử lí, nếu chưa giải quyết được cần phải hẹn khất lại vì lí do thời gian hay tiến độ bài học để suy nghĩ kĩ rồi trả lời sau.
 6.3- Kết luận chuyển ý: Mỗi hoạt động, mỗi vấn đề đều phải thực hiện trọn vẹn rồi mới hướng dẫn HS khái quát rút ra bản chất hay kết luận, GV bổ sung điều chỉnh sau đó mới chuyển sang phần khác. Phải tuỳ từng nội dung để có lời dẫn hay tạo mối liên kết khi chuyển ý sao cho đạt được sự liên tiếp hay lôgíc của nội dung bài học. 
 7.3- Phân phối thời gian hợp lí, tiết kiệm: Cần phân bố thời gian thích hợp cho mỗi phần, đặc biệt các bài dài cần ưu tiên thời gian cho phần trọng tâm. Tuy nhiên cần co dãn linh hoạt trong quá trình tổ chức tiết dạy. Tránh việc ghi bảng dài dòng, nói nhiều, đi lại nhiều trong lớp, không thuộc giáo án, sử dụng ĐDDH lúng túng, hoặc đưa ĐDDH ra không hợp lý...
 8.3- Tổ chức kiểm tra, đánh giá HS: Kiểm tra đánh giá HS được tiến hành trong cả tiết học, đầu giờ có thể không kiểm tra. Kiểm tra để nắm được thông tin về về kết quả giờ học mà điều chỉnh cách dạy, cách học. Cách kiểm tra cũng nên linh hoạt, nội dung kiểm tra cần kiểm tra 2 cấp độ tư duy của HS (Cấp độ thấp: ghi nhớ tái hiện; áp dụng trực tiếp lý thuyết làm làm tập, cấp độ cao: tư duy sáng tạo và năng lực giải quyết vấn đề, vận dụng vào bài tập khó). Hình thức kiểm tra cần phong phú và kết hợp các hình thức truyền thống, trắc nghiệm khách quan, các bài tập ở cấp độ khác nhau. Cần chuẩn bị tốt các nội dung định kiểm tra học sinh.
 9.3 - Sử dụng các đồ dùng phương tiện học tập: Các đồ dùng phương tiện dạy học bao gồm: bảng viết, lời nói, giáo án, SGK, phiếu học tập, dụng cụ máy chiếu, bảng phụ, các đồ dùng tự làm khác của thầy và cả của trò ... GV cần biết sử dụng đúng lúc, đúng chỗ với tư cách là phương tiện nhận thức chứ không đơn thuần là minh hoạ giản đơn. Điều quan trọng là GV cần có ý thức thường xuyên sử dụng ĐDDH.
 10.3- Kết hợp các hình thức học tập: Cần kết hợp các hình thức học tập khác nhau và phù hợp với nội dung bài học như: hình thức học đồng loạt, học theo nhóm, học cá biệt hoá (nhóm học sinh yếu, học sinh giỏi), học các chủ đề tự chọn, tham quan thực hành... Thông thường trong một tiết học GV thường sử dụng hình thức học đồng loạt và chia nhóm, các hình thức học tập khác ít được áp dụng. Tuy nhiên khi vận dụng còn máy móc. GV phải xác định được nội dung bài học nào cần áp dụng hình thức chia nhóm, nội dung nào nên học tập trung hoặc áp dụng các hình thức học tập khác. Không nên áp đặt khiên cưỡng và mỗi hình thức học tập đều được điều khiển bằng một qui trình riêng.
 11.3- Kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học: Có nhiều phương pháp dạy học hiện đại và phương pháp truyền thống, vấn đề là lựa chọn, kết hợp, sử dụng. GV nên sử dụng tập trung vào một số phương pháp như: vấn đáp, giải quyết vấn đề, phương pháp hợp tác và các phương pháp truyền thống (nhóm phương pháp dùng lời, nhóm phương pháp trực quan, nhóm phương pháp thực hành) theo tinh thần đổi mới. 
	Tóm lại để thiết kế được một giáo án tốt, theo tinh thần đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả giờ lên lớp là một quá trình lâu dài đòi hỏi GV phải từ bỏ thói quen cũ, mạnh dạn đổi mới, chủ động sáng tạo để phấn đấu trở thành GV có tri thức sâu rộng và trình độ sư phạm vững vàng, biết ứng xử tinh tế, biết sử dụng các TBDH hiện đại, biết định hướng học tập cho HS theo tinh thần phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, độc lập của HS trong qúa trình học tập.
IV. Phân loại các dạng bài cụ thể:
Như trên đã trình bày với mỗi loại bài cụ thể, thì tương ứng với nó phải có phương pháp dạy cho phù hợp, đồng nghĩa phải thiết kế được giáo án tương ứng cho loại bài đó. Cách viết của SGK mới đã thực sự giúp cho giáo viên chủ động hơn trong việc thiết kế bài giảng, có nhiều cơ hội để tổ chức hoạt động học tập cho học sinh và học sinh có thể tự học đạt kết quả cao hơn. Đa số các bài viết trong SGK đều tạo rất thuận lợi cho giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp dạy học “ Đặt - Giải quyết vấn đề”. Chính vì vậy, theo tôi giáo viên nên lựa chọn phương pháp này, kể cả khi giao việc cho các nhóm làm việc cũng phải đề cập đến các tình huống có vấn đề cho nhóm thực hiện (phối hợp các phương pháp dạy học).
	Để dạy học theo phương pháp này đạt hiệu quả cao nhất, khi thiết kế giáo án giáo viên cần đặc biệt lưu ý ba nhiệm vụ cần được làm rõ ( Tình huống đưa ra phải là tình huống có vấn đề “cũng có thể học sinh tự đưa ra do gặp khó khăn khi làm bài tập ở nhà”, đề xuất cách giải quyết vấn đề đó “có thể giáo viên đề xuất hoặc cao hơn là học sinh tự đề xuất” , kết luận vấn đề đưa ra và làm nảy sinh tình huống có vấn đề mới ví như việc chuyển ý trong nội dung bài học “ cũng có thể học sinh tự kết luận và đề xuất vấn đề mới”).
	Đối với bộ môn Toán, cách viết của SGK về cơ bản là như vậy và cấu trúc chương trình Toán cấp THCS có thể chia thành năm dạng bài cơ bản sau:
	- Bài dạy kiến thức mới ( Dạy khái niệm, định nghĩa, định lý, quy tắc, công thức...).
	- Bài luyện tập ( Củng cố, vận dụng, khắc sâu kiến thức qua bài tập cụ thể...).
	- Bài ôn tập ( Tổng kết một chương về lý thuyết, bài tập, ôn tập cuối kỳ, cuối năm, ôn thi tốt nghiệp).
	- Bài thực hành ( Thực hành đo đạc về độ dài, góc, chiều cao, khoảng cách...).
	- Bài kiểm tra ( Kiểm tra 1 tiết, thi học kỳ...). 
	Chính vì vậy để tiết dạy đạt được hiệu quả cao nhất, đòi hỏi giáo viên phải thiết kế được giáo án phù hợp cho từng dạng bài đó.
V. thiết kế giáo án cho từng loại bài :
1- Bài dạy kiến thức mới:
	Ta có thể chia loại bài này thành hai loại dạng bài cơ bản sau:
*) Dạng bài dạy khái niệm, định nghĩa:
Có ba con đường để hình thành khái niệm hoặc định nghĩa, đó là:
	- Quy nạp: Từ một vài ví dụ cụ thể ta đưa học sinh đến với khái niệm mới ( ví dụ khái niệm đơn thức, đơn thức đồng dạng...).
	- Suy diễn: Khái niệm mới được hình thnàh từ khái niệm, hoặc kiến thức đã có trước đó (ví dụ khái niệm đa thức, phân thức, hình bình hành, hình thoi ...).
	- Kiến thiết: Đây là con đường chúng ta thường dùng bao gồm cả suy diễn và quy nạp (ví dụ khái niệm hai phân thức bằng nhau...).
	Với mỗi một khái niệm giáo viên phải lựa chọn cho học sinh sinh con đường để đi tới khái niệm đó một cách có hiệu quả nhất. Từ đó thiết kế giáo án tương ứng với con đường đã lựa chọn.
	Sau khi đã hình thành khái niệm cho học sinh, giáo viên cần đặc biệt lưu ý, thiết kế các hoạt động kế tiếp như:
	- Cho học sinh nhận dạng và thể hiện khái niệm, bằng các hoạt động ngôn ngữ (học sinh phát biểu khái niệm, cho ví dụ thể hiện khái niệm, gồm có cả ví dụ đúng với khái niệm và ví dụ chưa đúng với khái niệm - phản ví dụ hoặc gần phản ví dụ).
	- Học sinh phải biết khái quát hóa, đặc biệt hóa và hệ thống các khái niệm.
	- Có những khái niệm mang tính hai chiều, giáo viên phải đặc biệt chú ý chiều ngược lại cho học sinh ( ví dụ khái niệm hai tam giác bằng nhau “ Hai tam giác có ba cạnh bằng nhau từng đôi một và ba góc bằng nhau từng đôi một thì hai tam giác đó bằng nhau, ngược lại hai tam giác bằng nhau ta suy ra được các cạnh tương ứng bằng nhau và các góc tương ứng bằng nhau”).
*) Dạng bài dạy định lý:
	Có hai con đường hình thành định lý là: Suy diễn và suy đoán.
	- Suy diễn: Từ những kiến thức đã có, bằng suy luận học sinh đi đến định lý mới cần có để vận dụng ( thường dùng cho lớp 8 và lớp 9). Nếu dùng phương pháp suy diễn tức là chúng ta đã chứng minh được định lý.
	- Suy đoán: Từ các hoạt động thực tế trong tính toán, đo đạc, kẻ vẽ, cát gấp ta dự báo được kết quả , sau này là định lý ( Quy nạp không hoàn toàn, hoặc là thực nghiệm). Dựa trên kết quả suy đoán đó bằng các lập luận có căn cứ, gợi ý cho chúng ta đường hướng chứng minh được suy đoán đó và ta được một định lý mới ( thường dùng cho học sinh lớp 7).
Với mỗi một định lý giáo viên phải lựa chọn cho học sinh sinh con đường để đi tới định lý đó một cách có hiệu quả nhất. Từ đó thiết kế giáo án tương ứng với con đường đã lựa chọn ( Gợi cho học sinh phát hiện ra định lý nhờ một trong hai con đường kể trên).
	Sau khi đã hình thành được định lý mới cho học sinh, giáo viên cần đặc biệt lưu ý, thiết kế các hoạt động kế tiếp như:
	- Phát biểu định lý dưới dạng ngôn ngữ.
	- Phát biểu định lý dưới dạng công thức, ký hiệu.
	- Vận dụng định lý vào việc giải quyết các bài tập.
*) Dạng bài dạy quy tắc toán học:
	Với loại bài dạy các quy tắc tóa học thông thường giáo viên hay sử dụng việc quy nạp từ các ví dụ cụ thể hoặc là suy diễn từ các kiến thức đã biết để hình thành được công thức, thuật toán. Khi thiết kế giáo án, giáo viên phải đực biệt lưu ý các điểm quan trọng của thuật toán, của công thức được hình thành nhằm khắc sau cho học sinh. Sau khi đã hình thành được công thức, thuật toán giáo viên cần thiết kế tiếp các hoạt động học tập cho học sinh như:
	- Chứng minh công thức ( nếu điều kiện cho phép).
	- Phát biểu quy tắc, thuật toán.
	- Làm các bài tập vận dụng quy tức, công thức, thuật toán.
Ví dụ: Dạy quy trình giải phương trình bậc hai. (các bước giải, phát biểu thành quy trình, áp dụng làm bài tập).
2- Bài luyện tập:
	Khi thiết kế giáo án dạy bài luyện tập, giáo viên đặc biệt lưu ý xác định rõ mục tiêu của tiết luyện tập ( củng cố kiến thức nào? rèn luyện kỹ năng nào?...). Sau đó giáo viên lựa chọn bài tập để đạt được mục tiêu đề ra ( cần lưu ý lựa chọn bài tập từ dễ đến khó hoặc là phân chia theo từng nhóm dạng bài có cùng cách giải). Khi dạy luyện tập giáo viên nên thiết kế có các bài tập chia nhóm học sinh làm bài (dạy học theo nhóm). Trong giáo án giáo viên cần định hình rấtccs nội dung sau: gợi ý học sinh tìm hiểu đề toán, tìm cách giải (con đường đi), trình bày lời giải, nghiên cứu sâu lời giải ( tương tự, mở rộng, lật ngược vấn đề, khái quát...)
	Sau khi đã lựa chọn được các bài tập cần làm, giáo viên cần chia ra thành các bài tập chữa nhanh, các bài tập chữa kỹ, các bài tập từ đó hình thành kiến thức mới (nếu có thể được).
	Khi thiết kế bài luyện tập giáo viên cần lưu ý đến lời giải của một bài toán (đặc biệt là các bàii chữa kỹ để hình thành quy trình giải bài tập): 
+) Kết quả phải đúng, kể cả các bước trung gian.
	+) Lập luận phải chặt chẽ.
	+) Lời giải phải đầy đủ.
	+) Ngôn ngữ phải chuẩn xác.
	+) trình bày rõ ràng, đảm bảo tính mỹ thuật.
	+) Tìm ra nhiều cách giải, cách giải ngắn gọn nhất.
	+) Giải các bài tương tự, mở rộng, lật ngược vấn đề, tổng quát hóa, tương tự hóa.
3- Bài ôn tập:
	Theo tôi đây là loại bài khó (dài), để tiết dạy được thành công giáo viên phải thực sự biết phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh, huy động học sinh tham gia tối đa vào bài giảng (kể cả làm việc trước ở nhà). Chính vì vậy trước khi đến tiết ôn tập giáo viên đã phải có định hình để giao việc về nhà cho học sinh, nhằm mục đích ôn tập nhanh được hệ thống kiến thức của chương và đặc biệt là hệ thống được các dạng bài tập và cách làm từng dạng bài chủ yếu của chương.
Với các bài ôn tập, khi thiết kế bài giảng, giáo viên phải tái hiện được các kiến thức cơ bản và hệ thống được các dạng bài tập của chương, đặc biệt lưu ý thiết kế hệ thống bảng phụ (hoặc phim dùng đèn chiếu). Chú ý cho học sinh làm quen với các bài tập trắc nghiệm, các bài tập mang tính chất tổng hợp kiến thức cũ - mới.
	Có thể dạy tiết ôn tập theo ba hình thức sau:
	+) Học sinh ôn tập song song cả lý thuyết và bài tập (Với các bài mà phân phối chương trình chỉ có 1 tiết).
	+) Học sinh được hệ thống lại lý thuyết, sau đó làm bài tập rèn kỹ năng hoặc nâng cao.
	+) Kết hợp vừa hệ thống lý thuyết, vừa làm bài tập.





B- thiết kế một giáo án cụ thể: 
Môn: Đại số lớp 8 - ôn tập chương II - phân thức đại số




Tiết 34 : ÔN TậP CHƯƠNG II
 I- Mục tiêu bài học.
	- Học sinh được củng cố vững chắc các khái niệm: Phân thức đại số, hai phân thức bằng nhau, phân thức đối, phân thức nghịch đảo, điều kiện xác định của phân thức, biểu thức hữu tỷ, làm các bài tập trắc nghiệm đơn giản.
	- Học sinh nắm vững và có kỹ năng thực hiện tốt các phép tính trên phân thức.
	- Học sinh nắm và biết cách giải các dạng bài tập có liên quan: Rút gọn, tính giá trị, tìm giá trị của biến, chứng minh đẳng thức...
	- Rèn kỹ năng trình bày lời giải, tính cẩn thận chính xác cho học sinh.
	- Chuẩn bị cho kiểm tra một tiết, giáo viên điều chỉnh phương pháp dạy học.
II- Chuẩn bị tài liệu, đồ dùng.
Thầy: SGK, SGV, máy chiếu, phim trong, phiếu học tập.
	Trò: SGK, các câu hỏi trong SGK, các bài tập SGK, bút màu.
III- Tiến hành bài mới: ổn định lớp học ( 1/ ) và Giới thiệu bài học (2/).
t,
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
Nội dung ghi bảng


6/






























8/



























7/











8/








8/







5/







Hoạt động 1: Củng cố lý thuyết.
* Khái niệm, tính chất cơ bản của PTĐS.
- Định nghĩa phân thức đại số? 
- Hai phân thức bằng nhau? 

-Tính chất cơ bản của phân thức?




- Phân thức được xác định khi nào?


- Quy tắc đổi dấu PTĐS?

- Rút gọn phân thức?


+) áp dụng rút gọn phân thức sau:
 và 
( Hai HS lên bảng làm bài tập, GV chiếu trên máy chiếu )
- Quy tắc quy đồng mẫu thức nhiều phân thức?
+) áp dụng quy đồng mẫu thức hai phân thức sau?
 và 

* Các phép toán trên PTĐS.
- Quy tắc cộng hai phân thức?
- Quy tắc trừ hai phân thức?




+) áp dụng cộng, trừ các PTsau:
 
(HS lên bảng làm bài tập, GV chiếu trên máy chiếu )
- Quy tắc nhân hai phân thức?
- Quy tắc chia hai phân thức?
+) áp dụng nhân, chia các PT sau:
 a) 
 b) 
( Hai HS lên bảng làm bài tập, GV chiếu trên máy chiếu )
Hoạt động 2: Rèn kỹ năng làm bài tập cho học sinh.
(Giáo viên chiếu các 

File đính kèm:

  • docChuyen de Thiet ke giao an theo tinh than doi moi PPDH.doc