Đề cương ôn thi học sinh giỏi lớp 12 năm học 2008 - 2009. phần 1: ôn tập kiến thức, bồi dưỡng kĩ năng

doc20 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1112 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề cương ôn thi học sinh giỏi lớp 12 năm học 2008 - 2009. phần 1: ôn tập kiến thức, bồi dưỡng kĩ năng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề cương ôn thi Học sinh giỏi lớp 12
Năm học 2008 - 2009.
Phần 1: Ôn tập kiến thức, bồi dưỡng kĩ năng. (12 tiết)Bài 1: Thơ mới.
 I/ Nội dung chủ đạo của những bài Thơ mới trong chương trình:1. Vội vàng (Xuân Diệu).
 a. Đoạn thơ 1
 - Bốn câu đầu: Điệp từ “Tôi muốn” thể hiện khát vọng mãnh liệt của tác giả. Điều mà XD khao khát thực hiện ở đây là tắt nắng và buộc gió để hương sắc còn mãi. Đó là mong ước đoạt quyền tạo hoá để giữ cái đẹp cho đời, suy đến cùng đó cũng là biểu hiện của lòng say mê cuộc sống.
 - Đoạn tiếp theo, XD làm sống dậy những nét tình tứ, điệu quyến rũ, vẻ kì thú, hấp dẫn ngay trong những cảnh sắc sự vật thiên nhiên quen thuộc:
 “Của ong bướm này đây tuần tháng mật.
 …………………………………………..
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần.”
 - Nghệ thuật điệp từ và phép liệ kê khiến cảnh sắc thiên nhiên sinh động va fhấp dẫn tựa thiên đường.
- Bao trùm lên tất cả là cái nhìn tình tứ về sự vật. Nhờ đó, từng cảnh sắc đều tình tứ, mọi cảnh tượng đều tràn ngập xuân tình. Cái nhìn ấy đã quy chiếu thiên nhiên về vẻ đẹp của giai nhân:
 + “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần.”
 Đó là những yếu tố cơ bản khiến cảnh sắc quanh ta vốn quen thuộc, bình dị mà cách cảm nhận của XD trở nên mới lạ, thơ mộng và hấp dẫn đến thế.
 - Hình ảnh thiên nhiên trở nên hấp dẫn nhờ XD có cách cảm nhận mới lạ: Cảm nhận bằng cảm xúc và cái nhìn trẻ. Cái nhìn này khiến thiên nhiên hiện lên trong cái thời tươi của nó.
 + Ông khơi dậy vẻ thanh tân, tinh khôi gợi tình trong vạn vật; đồng thời thi sĩ nhìn chúng không chỉ bằng cái nhìn thưởng thức, mà bằng cái nhìn luyến ái, khát khao chiếm hữu. Nghĩa là ông chú y đến vẻ xuân tình của cảnh vật và trút vào đó cả xuân tình của lòng mình. Vì thế nét hấp dẫn trong vẻ đẹp cảnh vật của XD chính là nét hấp dẫn của Xuân và tình, trong đó vẻ xuân của vạn vật chi là hiện thân của tình. Tất cả đều huy hoàng thắm tươi.
 “Của ong bướm……………………khúc tình si”.
 “Tháng Giêng ………………môi gần”.
 b. Đoạn 2:
 - Thời gian trong vũ trụ muôn đời vẫn thế chỉ có quan niệm của con người về thời gian thì đổi thay. Sự đổi thay này có thể do trình độ nhận thức khoa học, y thức triết học , y thức thẩm mỹ,…Trong bài này XD đưa ra cách quan niệm mới về thời gian.
 - Cách trình bày của XD là chống đối, tranh cãi lại quan niệm xưa đồng thời bộc bạch quan niệm của mình một cách sôi nổi, đầy cảm xúc.
 (“Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua………..Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”) = giọng biện bác tranh luận, nhịp điệu sôi nổi khẩn trương và những câu thơ đầy mỹ cảm về cảnh sắc thiên nhiên, trong đó chứa đựng cảm nhận về thời gian.
 - Quan niệm Xuân Diệu chống đối là quan niệm thời gian tuần hoàn của các cụ ta xưa xuất phát từ cái nhìn tĩnh có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ làm thước đo thời gian. Thời ấy con người cá nhân chưa tách rời cộng đồng, còn gắn với vũ trụ nên chết chưa phải là hết mà là đi vào hư vô. Thảng hoặc cũng có người than về cái ngắn ngủi của kiếp người.
 - XD quan niệm khác, theo ông thời gian là tuyến tính, một đi không trở lại. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn động, rất biện chứng về vũ trụ và thời gian. “Xuân đương tới…….xuân sẽ già”.
 + XD lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian, tức là lấy cái quỹ thời gian hữu hạn của sinh mệnh cá thể ra để đo đếm thời gian vũ trụ. Thậm chí, lấy quãng ngắn nhất, giàu y nghĩa nhất trong sinh mệnh con người là tuổi trẻ ra để làm thước đo:
“Mà xuân hết………tôi tiếc cả đất trời”
 + XD cảm nhận về thời gian đầy tính mất mát. Mỗi khoảmh khắc trôi qua là một sự mất mát, đó chính là một phần đời trong sinh mệnh cá thể đã ra đi mãi mãi
 + Mỗi khoảnh khẳc trôi qua là một cuộc chia ly: “Mùi tháng năm…..tiễn biệt.”Câu thơ thể hiện cái nhìn tế vi của XD về thời gian. Dòng thời gian được nhìn như một chuỗi vô tận những mất mát, chia phôi nên thấm đẫm hương vị của chia lìa. và dậy lên đo đây khắp sông núi là những lời than thở tiễn biệt. Đó là lời than của vạn vật. Là không gian đang tiễn biệt thời gian. Sâu xa hơn, mỗi sự vật thiên nhiên đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó. Những phần đời của sinh mệnh mình đang ra đi không thể nào cưỡng lại, nó tạo nên sự trôi chảy không ngừng, tạo nên sự phôi pha, p hai tàn của từng cá thể:
“Con gió xinh………..độ phai tàn sắp sửa?”
 + Cảm nhận trên xuất phát từ y thức sâu xa về giá trị sự sống cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời sống cá thể đều vô cùng quí giá vì một khi nó đã qua đi không bao giờ trở lại. Quan niệm này khiến con người trân trọng từng giây phút cuộc đời mình, và biết làm cho mỗi khoảnh khắc của đời mình đày tràn y nghĩa. Đây là cơ sở sâu xa của triết lí sống vội vàng.
 c. Cái tôi của nhà thơ thể hiện trong bài:
Từ những quan niệm mới về thời gian, tuôỉ trẻ, hạnh phúc trong toàn bài cho thấy cái tôi XD điển hình cho thời đại thơ mới:
 - Một y thức ráo riết về giá trị của đời sống cá thể, nghĩa là một y thức nhân bản, nhân văn rất cao.
 - Một quan niệm táo bạo đầy tính cách mạng trước những quan niệm cũ kĩ vốn cản trở việc giải phóng con người cá thể.
 - Một niềm thiết tha với cuộc sống trần thế, niềm vui trần thế.
 - Một khát khao sống mãnh liệt và một tâm thế sống cuồng nhiệt tích cực.
 2: Tràng Giang (Huy Cận)
 - Lời đề tựa thâu tóm nội dung bài thơ: nỗi bâng khuâng (ngỡ ngàng, tiếc nuối, nhớ thương đan xen nhau) trước cảnh vũ trụ bao la bát ngát.
 - Khổ thơ một: 
+ Hai câu đầu: Tác giả dùng từ Tràng giang chứ không phải Trường Giang. Cách điệp vần ang góp phần tạo dư âm vang xa, trầm buồn của câu thơ mở đầu; tạo nên âm hưởng chung cho giọng điệu cả bài thơ. Tràng giang gợi lên một con sông không chỉ dài mà rộng. Sức mạnh nghệ thuật ở hai câu thơ trên không phải là nghệ thuật miêu tả, mà ở nghệ thuật khơi gợi được cảm xúc và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang) và thời gian (điệp điệp).
 + Nghệ thuật đối y, đối xứng làm giọng điệu bài thơ uyển chuyển linh hoạt, tránh được sự khuôn sáo cứng nhắc mà vẫn tạo không khí trang trọng, sự cân xứng nhịp nhàng. Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng từ láy điệp điệp, song song cũng có hiệu quả nhất định gợi âm hưởng cổ kính. 
 + Nét hiện đại nằm trong câu thơ kết khổ 1: Nó xuất hiện cái tầm thường, nhỏ nhoi vô nghĩa như củi một cành khô. Hình ảnh một cành củi khô đơn lẻ trôi bồng bềnh trên dòng sông mênh mông sóng nước để gợi lên nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định.
 - Khổ thơ 2: Nỗi buồn như thấm sâu vào cảnh vật.
 + Từ đìu hiu, Huy Cận học ở thơ Chinh phụ ngâm: “Non kì quạnh quẽ trăng treo/ Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”. Hơn nữa cặp từ, đìu hiu, lơ thơ cùng gợi lên được sự buồn bã, quạnh vắng cô đơn,…
+ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”: có hay không có tiếng chợ chiều đã vãn, càng gợi thêm nét buồn. Ngay cả tiếng chợ chiều ở một làng xa nào đấy cũng không còn nữa, tất cả đều vắng lặng cô tịch. Trong toàn bộ bài thơ, Huy Cận dường như muốn phủ nhận tất cả những gì thuộc về con người, chỉ còn cảnh vật, trời đất mênh mông.
 + Đây là những câu thơ có giá trị tạo hình đặc sắc. Không gian được mở rộng và đẩy cao thêm. Sâu gợi được ở người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Chót vót khắc hoạ được chiều cao dường như vô tận. Càng sâu, càng rộng, càng cao thì cảnh vật càng thêm vắng lặng, chỉ có sông dài với bờ bến lẻ loi, xa vắng (cô liêu). Nỗi buồn tựa hồ như thấm vào không gian ba chiều. Con người ở đây nên nhỏ bé, có phần rợn ngợp trước vũ trụ rộng lớn, vĩnh hằng và không thể không cảm thấy “lạc loài giữa cái mênh mông của trời đất, cái xa vắng của thời gian”. (Hoài Thanh)
 - Khổ thơ 3:
+ Nỗi buồn được khắc sâu qua các hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Bên cạnh những hình ảnh thuyền và nước như cùng trôi về cõi vô biên, hình ảnh củi khô lưu lạc, bồng bềnh trên sóng nước từ khổ thứ nhất đến khổ thơ này; ấn tượng về sự chia ly tan tác được láy lại lần nữa càng gợi thêm một nỗi buồn mênh mông. Toàn cảnh sông dài trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người. Không một con đò, không một cây cầu, nhờ chúng có thể tạo nên sự gần gũi giữa con người vơí con người; mà chỉ có thiên nhiên (bờ xanh) với thiên nhiên (bãi vàng) xa vắng hoang vu. Vì thế nỗi buồn trong bài này không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời.
 - Khổ thơ thứ tư: Nhà thơ mượn cách diễn đạt của thơ Đường mà vẫn độc đáo, đậm cá tính. Thiên nhiên ở đây tuy buồn nhưng thật tráng lệ. “Mây cao đùn núi bạc” thật là hùng vĩ đối lập với cánh chim nhỏ nghiêng cánh giữa chiều tà khiến cảnh sắc thêm rộng, thêm hùng vĩ, khoáng đạt mà cũng buồn hơn. 3. Hầu trời (Tản Đà)
 a. Bốn câu thơ đầu gây được mối nghi ngờ, gợi trí tò mò của ngươi fđọcnhờ tài hư cấu độc đáo và có duyên của nhà thơ. Câu chuyện kể về cõi mơ chính tác giả cũng không biết có hay không, nhưng ba câu cuối lại là lời khẳng định “Thật hồn..lạ lùng” khiến câu chuyện trở nên hư hư thực thực, vì thế mà hấp dẫn.
 b. Đoạn tiếp theo: Câu chuyện lên trời đọc thơ:
 - Thi sĩ cao hứng và tự đắc:”Đương cơn đắc y đọc đã thích”, “ Văn dài hơi tốt ran cung mây”,….
 - Chư tiên nghe thơ rất xúc động, tán thưởng và hâm mộ:”tâm như nở dạ, cơ lè lưỡi”,…
 - Trời khen rất nhiệt thành: văn thật tuyệt, chắc ít có, đẹp như sao băng,..
 - Tác giả tự xưng tên tuổi và thân thế.
Qua câu chuyện kể, Tản Đà rất y thức về tài năng và dám bộc lộ cái tôi cá thể của bản thân. Ông rất ngông khi tìm đến tận trời để đọc thơ, để thể hiện cái tôi của mình. (Nguồn gốc cái ngông? Biểu hiện và y nghĩa cái ngông trong văn chương? suy đến cùng đó là niềm khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ. TĐ là người đầu tiến trong văn đàn Việt Nam dám mạnh dạn hiện diện bản ngã đó. “CN lãng mạn, với cá thể đã bật nứt ra trong văn học Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ XX bằng Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu”. (Xuân Diệu)
 - Giọng điệu kể chuyện của tác giả đa dạng và hóm hỉnh, có phần ngông nghênh tự đắc. Thái dộ ấy được phóng đại một cách có y thức, gây ấn tượng mạnh cho người đọc. (Cái mới của Tản Đà)
 c. Đoạn 3:
 - Nhà thơ nói đến nhiệm vụ truyền bá thiên lương của mình chứng tỏ ông lãng mạn nhưng không thoát ly cuộc đời.vẫn y thức trách nhiệm với đời và khao khát được gánh vác việc đời. Đó cũng là một cách để tự khẳng định mình.
 - Nhưng cuộc đời những nghệ sỹ bấy giờ vô cùng cực khổ, tủi hổ. Tản Đà vẽ nên bức tranh chân thực và cảm động về chính cuộc đời mình và cũng là của nhiều nhà văn khác. Bản thân ông phải sống trong nghèo khổ, làm đủ nghề kiếm sống, khi chết để lại một gia quyến vừa yếu và đuối (tư liệu cuộc đời TĐ). Có lúc ông tháy đời dáng chán nên tìm đến cõi trời để thoả niềm khao khát. Đây là sự kết hợp hai nguồn cảm hứng lãng mạn và hiện thực trong bài.
*. Nghệ thuật:
 - Thể thơ theo lối trường thiên khá tự do, không bị ràng buộc bởi khuôn mẫu, kết cấu nào; nguồn cảm xúc được bộc lộ thoải mái, tự nhiên, phóng túng.
 - Ngôn ngữ thơ chọn lọc tinh tế, gợi cảm và rất gần với đời, không cách điệu ước lệ.
 - Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc.
 - Tác giả hiện diện trong bài thơ với tư cách người kể chuyện đồng thời là nhân vật chính. Cảm xúc biểu hiện phóng túng tự do, không hề gò ép.
 Thơ TĐ chưa mới ở thể loại ngôn từ, hình ảnh nhưng những dấu hiệu hiện đại hoá đã đậm nét. Ông đã bắc nhịp cầu nối hai thời đại thi ca Việt Nam.
 Bài tập về nhà: Cái tôi lãng mạn của TĐ trong bài “Hầu trời”.
 4 . Đây thôn vĩ dạ (Hàn Mặc tử)
 a. Hoàn cảnh ra đời:
Khi HMT làm ở Huế có quen và cảm mến Hoàng Thị Kim Cúc nhà ở Vĩ Dạ. Sau HMT vào Quy Nhơn chữa bệnh thì nhận được phong bưu ảnh Cúc gửi kèm lời thăm hỏi. HMT xúc cảm viết nên bài thơ này gửi tặng nàng.
b. Nội dung:
* Khổ thơ 1: 
- Câu hỏi mở đầu là lời trách nhẹ nhàng cũng là lời mời gọi tha thiết của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ hay cũng chính là lời tự trách, là ao ước thầm kín của người đi xa được về thôn vĩ. Hai tiếng về chơi gợi bao sắc thái chân tình, thân mật. Cau hỏi vọng lên từ phương xa ấy gợi cho nhà thơ bao kỉ niệm sâu sắc, bao hình đẹp đẽ, đáng yêuvề xứ Huế, nơi có người tác giả mến thương.
- Hai câu thơ tiếp theo gợi lại ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc của Hàn Mạc Tử về thôn Vĩ tươi đẹp, trù phú. Hàng cau thẳng tắp từ xa đã vẫy chào gợi nỗi niềm thân thương của làng mạc. ánh nắng bình minh trong trẻo, tinh khiết, bừng sáng cả khoảng trời hồi tưởng của thi nhân. 
 Câu thơ thứ 3 lại là cái nhìn thật gần của người đang đi giữa khu vườn tươi đẹp thôn Vĩ. Chữ Mướt gợi vẻ tươi tốt, đầy sức sống của vườn cây. Vườn ai mướt quá mang sắc thái ngợi ca, xanh như ngọc lại là so sánh thật đẹp. Phải là người yêu thiên niên, gắn bó ân tình với thôn Vĩ mới lưu lại trong tâm trí những hình ảnh đệp đẽ và sống động như thế.
- Câu thơ cuối khổ thơ 1 khiến bức tranh thêm sinh động hài hoà với sự xuất hiện của con người. “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
* Khổ thơ 2:
- Hình ảnh dòng sông Hương trôi lững lờ, êm đềm, ẩn sâu bao suy tư của chính nhà thơ. (biện pháp nghệ thuật nhân hoá khiến hình ảnh đẹp nhưng lạnh lẽo). Cách sắp xếp từ khi viết “Gió …mây”khiến không gian như chia lìa, trống vắng. Cảnh sông nước vì thế buồn thiu, cây cỏ hai bên bờ chỉ khẽ lay động.
- Hai câu sau cho thấy tâm hồn nhà thơ cô đơn nhưng chan chứa tình yêu với con người và thiên nhiên xứ Huế. Cảnh thực mà như mơ. Con thuyền bến sông vừa như có đấy vừa như ảo ảnh đầy ánh trăng vàng bởi nó là con thuyền và dòng sông của hoài niệm. Câu cuối, hai từ tối nay đã kết nối hình ản cảu quá khứ vào cảm nghĩ của nhà thơ trong thực tại. Nhà thơ yêu trăng, yêu người xứ Huế nhưng nỗi niềm tam sự chỉ có trăng kia hiểu được mà thôi. ánh trăng xoa dịu nỗi xót xa, bầu bạn để nhà thơ bớt cô đơn.
* Khổ thơ 3: 
- Hình ảnh khách đường xa láy lại hai lần cho thấy nỗi xót xa âm thầm của tác giả bởi mặc cảm về tình người. Với người thôn Vĩ nhà thơ chỉ là người khách xa xôi, thậm chí khách trong mơ.
- Hai câu sau vừa tả thực sương khói làm nhoà bóng em trong sắc áo trắng vừa có ý nghĩa tượng trưng cái huyền hoặc của cuộc đời đang làm cho tình người trở nên khó hiểu và xa vời. 
 - Hai khổ thơ đầu nói lên vẻ đẹp của xứ Huế, khổ thơ sau nói đến cái đẹp của người con gái Huế. Với cảnh Huế nhà thơ đắm say đến hoà nhập vào cảnh nhưng với con gái Huế nhà thơ lại lùi ra xa để ở giữa khoảng trống của khói sương. Câu thơ cuối hoài nghi mà chan chứa niềm thiết tha với cuộc đời. Câu thơ làm tăng nỗi cô đơn, trống vắng trong tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời.II/ Mở rộng:1. Xuân Diệu:
a. Một nhà thơ tha thiết yêu đời, khát khao giao cảm mãnh liệt: - Xuân Diệu là một trái tim lớn, một nguồn tình cảm yêu đời, yêu cuộc sống trần thế một cách mãnh liệt đến cuồng nhiệt. Đến khi sắp giã từ c/ sống ông vẫn để lại những vần thơ đầy xúc động: “Hãy để cho tôi được giã từ/ Vẫy chào cõi thực để vào hư/ trong hơi thở chót dâng trời đất/ Cũng vẫn si tình đến ngất ngư”. - Lí do: + Cá tính. + Hoàn cảnh gia đình: xa mẹ từ nhỏ, bị hắt hủi nên khao khát tình thương. + Sinh ra trên miền quê lộng gió nồm,dào dạt sóng; học ở Huế thơ mộng, bừng tỉnh với c/ sống sôi động và lộng lẫy nơi Thăng Long khiến ông càng yêu đời say đắm. b. Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới: - Thơ mới là tiếng nói của thế hệ thanh niên VN buổi mất nước khát khao khẳng định mình khi cái tôi cá nhân được giải phóng. Họ tìm đến thơ ca để thể hiện cá tính, tài năng, ý thức về cái tôi của bản thân mình.  - Các nhà thơ mới thường đối lập mình với cuộc đời và tìm cách thoát ly c/ sống. (Chế Lan Viên: “Hãy cho tôi…..buồn lo”, Thế Lữ: “Tôi là người bộ hành phiêu lãng…..ham vẻ đẹp có muôn hình muôn thể”,…) - XD muốn khẳng định cái tôi trong quan hệ gắn bó với cuộc đời. Cuộc đời theo nghĩa trần thế nhất và sống mãi với đời là cả niềm hạnh phúc. - XD làm thơ viết văn là để sống mãi trên thế gian tới vĩnh viễn mai sau (Tình mai sau). - Đề tài chủ yếu trong thơ XD là mùa xuân, tuổ trẻ, tình yêu. Lòng yêu đời khiến ông thấy bốn mùa đều là mùa xuân, trời đất cỏ cây đều quấn quýt giao tình. - XD viết nhiều thể loại cũng là để thể hiện lòng yêu đời đắm say không dừng lại ở một thể loại bó hẹp nào. - Với niềm khát khao giao cảm với đời nên XD say đắm tình yêu, viết nhiều và đạt vị trí nhà thơ tình số 1 của VN.
 - Yêu c/ sống, yêu con người với tuổi trẻ và tình yêu, XD có cách tân về thi pháp. Quan niệm thẩm mỹ của ông lấy con người với vẻ đẹp xuân tình là thước đo vẻ đẹp của vũ trụ. Thế giới hình tượng trong thơ XD giàu xuân sắc và tràn đầy xuân tình, xuân sắc. - Nhưng XD đào sâu vào cái tôi cá nhân và “càng đi sâu càng thấy lạnh”, lại nữa trong xã hội cũ tấm lòng tác giả không được đền đáp xứng đáng nên lắm lúc nhà thơ thấy cô đơn, muốn trốn đời trốn cả bản thân mình. (Cặp hài vạn dặm).
 2. Một số phong cách khác:- “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu….Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.”
- “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên,…và thiết tha rạo rực như Xuân Diệu.” (Hoài Thanh)III/ Bài tập về nhà:
1. Cái tôi trữ tình của xuân Diệu trong bài “Vội vàng”.
2. Tại sao nói “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Bài 2: Văn xuôi Việt Nam đầu thế kỉ XX đến 1945
 I/ Giá trị nhân đạo trong văn học: - “Nếu khối óc nhà văn không có những luồng sáng bất bình, nếu tâm hồn người cầm bút không cảm thấy nỗi đau đớn, thiếu thốn của kiếp người, những điều mong mỏi thiết tha của thời đại, nếu không lĩnh hội được tính cách luôn biến thiên của thế giới, của nhân sinh , nếu như với hiện tại với tương lai không có một yêu cầu, một hy vọng tin tưởng gì thì cái thứ văn mơn trớn béo tốt như đẫy thịt, trơn như tảng trán hói của anh trưởng giả cũng chỉ là thứ văn chơi mà thôi, chả có ý nghĩa gì là văn học.” (Đặng Thai Mai)
 - Giá trị nhân đạo trong tác phẩm văn học thể hiện: + Tình cảm thái độ đối với con người (ca ngợi, trân trọng ai, bênh vực những loại người nào; lên án, tố cáo ai, điều gì) + Thái độ và tình cảm với cái xấu, cái ác.
II/ Giá trị hiện thực: Hiện thực trong tác phẩm là bức tranh thời đại giúp ta nhìn ra bản chất xã hội thông qua các mối quan hệ xã hội. - Tác phẩm bàn đến những mâu thuẫn xã hội nào? - Tác phẩm có đề cập đến những vấn đề cơ bản trong đời sống xã hội không? - Tác giả giải quyết mâu thuẫn, các mối quan hệ ấy dựa trên quan điểm nào?III/ Giá trị hiện thực và nhân đạo trong “Chí Phèo” của Nam Cao.1. Biểu hiện của chủ nghiã nhân đạo trong truyện “Chí Phèo:”
 - Nam Cao phát hiện, đồng cảm, thương xót với những bất hạnh của người nông dân dưới chế độ thực dân phong kiến. Ông hướng ngòi bút của mình vào cuộc sống nghèo khổ tăm tối của, những số phận đau khổ của người nông dân. (cuộc đời Chí Phèo, Thị Nở). Điều đặc biệt, ông không chỉ nói đến nỗi khổ do bị bóc lột mà còn là nỗi đau bị tha hoá, lưu manh hoá, bị tước đoạt cả nhân hình và nhân tính, bị đoạt quyền làm người, bị đẩy ra khỏi xã hội loài người. Đó là nỗi đau lớn nhất của con người.
 - Nam Cao tố cáo gay gắt những thế lực bạo tàn đã áp bức, xô đẩy người nông dân lương thiện vào con đường lưu manh hoá, tước đoạt quyền làm người ở họ.
 + Đại diện cho cường hào nông thôn trực tiếp đẩy Chí vào con đường bế tắc là Bá Kiến.
 + Nhà tù biến Chí thành kẻ lưu manh, mất nhân cách.
 + Chí trở về làng vẫn ôm mối hận Bá kiến nhưng sự lọc lõi, khôn ngoan róc đời của hắn đã biến Chí thành tay sai chuyên nghề rạch mặt ăn vạ gây hoạ cho dân làng khiến mọi người xa lánh Chí.
 + Trong truyện không chỉ có Chí Phèo mà còn có Năm Thọ, Binh Chức chung một thảm phận ấy. Truyện tố cáo cả chế độ xã hội đương thời là thủ phạm gây hiện tượng một bộ phận nông dân bị lưu manh hóa.
 - Sự sâu sắc trong tư tưởng nhân đạo của Nam Cao còn là nhà văn đi sâu vào nội tâm nhân vật, phát hiện và khẳng định nhân phẩm của họ, diễn tả sâu sắc khát vọng hoàn lương của họ. 
 + Khi Chí trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, Nam Cao vẫn thấy được ở Chí nỗi khao khát được giao tiếp với đồng loại dù chỉ là tiếng chửi nhau.
 + Tác giả dành nhiều trang trong tác phẩm và có những trang là tuyệt bút để miêu tả sự thức tỉnh lương tri , khao khát về lại cuộc đời của nhân vật. 
 + Sự gặp gỡ với Thị Nở, những biến đổi âm thầm, lặng lẽ còn rụt rè mà không kém phần mãnh liệt của nhân tính ở Chí từ khi được tận hưởng hơi ấm tình người nơi Thị Nở.
 + Khao khát mạnh mẽ trở về cuộc đời bình dị quyết không sống kiếp quỷ dữ nơi Chí từ khi có tình yêu của Thị Nở khiến hắn lựa chọn cái chết sau khi tiêu diệt kẻ thù của đời mình cho thấy một chân lí: Khi nhân tính sống lại trong con người thì họ không chấp nhận kiếp thú vật dù phải đổi bằng mạng sống. Thế mới biết khát vọng làm người lớn biết bao và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người đáng thương nhường nào!
- Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí cùng cái chết vật vã của hắn bên ngưỡng cửa cuộc đời đã rung lên hồi chuông: hãy cứu lấy con người, hãy cứu lấy nhân tính. 
 Bi kịch này là nỗi đớn đau tột cùng của con người, là sự phê phán gay gắt với hiện thực xã hội, qua đó thể hiện niềm cảm thông sâu sắc của tác giả với nỗi đau con người.
 2. Giá trị hiện thựca/ Mâu thuẫn xã hội trong Chí Phèo:
- Mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến thể hiện đặc biệt sâu sắc qua quan hệ của Chí Phèo và Bá Kiến. Và đây là thứ mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà. 
- Đó là mâu thuẫn cơ bản trong đời sống ở nông thôn bấy giờ. Và đây là thứ mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà.
b Các vấn đề cơ bản của cuộc sống được đặt ra và cách giải quyết trong tác phẩm Chí Phèo:
- Truyện Chí Phèo đặt ra vấn đề với một cố nông thật sự: bản chất Chí là canh điền “hiền lành như đất”, có y thức rõ rệt về nhân phẩm của mình: “Hồi ấy hắn hai mươi……… Hắn thấy nhục hơn là thích.”
- Sau khi ở tù ra Chí đã thay đổi nhân hình lẫn nhân tính:
+ Ngoại hình trông đặc như thằng sắng đá: Cái mặt đen, hai mắt gườm gườm, cái đầu cạo trọc lốc, cái răng thì trắng hớn.
+ Tính cách du đãng: Uống rượu say rồi chửi bới, đập vỏ chai, rạch mặt kêu làng.
- Đặc biệt từ khi là tay chân cho Bá Kiến, Chí Phèo thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
 Rõ ràng tính chất lưu manh, côn đồ của Chí Phèo là do hoàn cảnh khách quan tạo nên: Chế độ xã hội đã tha hoá bản chất tốt đẹp trong sáng vốn có ở Chí Phèo.
- Cách giải quyết của tác giả: Chí Phèo chết sau khi đâm chết Bá Kiến. Cái chết thê thảm đó của Chí Phèo là sự phê phán gay gắt với xã hội thực dân phong kiến đã chà đạp lên quyền sống con người.
- Hiện tượng như Chí Phèo là hiện tượng có tính phổ biến, quy luật của xã hội nông thôn thuộc địa.
- Nam Cao còn đặt vấn đề con người bị từ chối quyền làm người. Thực chất đây cũng là vấn đề con người bị áp bức bóc lột chà đạp về quyền sống. 
- Nhà văn phát hiện hiện tượng Chí Phèo trong xã hôi ấy vẫn có nguy cơ xảy ra mãi nếu không có cách mạng.
. Bộ mặt của giai cấp phong kiến thống trị được miêu tả chân xác qua cái nhìn sắc cạnh và bén nhọn của Nam Cao.
+ Giai cấp phong kiến mâu thuẫn lục đục trong nội bộ của chúng chỉ vì sự tham lam.
- Bá kiến là một gã già đời đục khoét, lọc lõi từng trải trong nghề bóc lột, tìm ra những thủ đọa lừa lọc tinh vi.
+ Hắn nham hiểm trong quan hệ đặc biệt thể hiện ở cách khích Chí Phèo đi đòi nợ Đội Tảo.
+ Bá Kiến vừa dâm đãng vừa ghen tuông thảm hại, nên căm thù tuổi trẻ.
+ Gia đình hắn với Bà ba dâm đãng, với mụ tử trẻ phây phây mà lại đa tình, với Lí Cường hữu dũng vô mưu, coi người như rơm rác, tất cả tạo nên một điển hình về một gia đình địa chủ, ác bá cường hào ở nông thôn đầy tính chất thối nát.
IV/ Bài tập về nhà: 
1. Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX đến 8/1945?
2. SGK ngữ văn 12 viết: Dù viết về đề tài người trí thức tiểu tư sản hay người nông dân thì những sáng tác của Nam Cao cũng thể hiện niềm day dứt của tác giả trước thực trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm trong một xã hội vô nhân tính”. Anh (chị) đồng ý với ý kiến đó không? Bài 3: Văn học cách mạng: I/ Nguyễn ái Quốc – Hồ Chí Minh: 
 1. Tính cổ điển và tính hiện đại trong thơ Hồ Chí Minh: a. Tính cổ điển: Thơ xưa - Thơ xưa đầy thiên nhiên. Con người bao giờ cũng sống giữa thiên nhiên dù nói đến tình yêu hay tình bạn,…Con người trong ý thức chưa tách mình ra khỏi thiên nhiên, thường được mô tả như một yếu tố của thiên nhiên và mang những phẩm chất của thiên nhiên, đồng thời thể hiện thiên nhiên cũng có tâm hồn, tâm tư tình cảm vậy. - Thơ xưa quan sát thiên nhiên từ cao, xa, bao quát cả một khoảng đất bao la nên thiên nhiên tĩnh tại; chú trọng ghi lấy bằng vài nét chấm phá, đơn sơ cái gọi là linh hồn của tạo vật.*Thơ HCM: - Hình ảnh thi liệu thơ HCM quen thuộc trong thơ Đường, thơ Tống. - Bút pháp chấm phá. - Hình tượng nhân vật trữ tình ung dung nhàn tản, có quan hệ hoà hợp với thiên nhiên và sống ẩn dật giữa thiên nhiên.b. Tính hiện đại trong thơ HCM: - Cảnh thiên nhiên (mây, gió trăng , hoa, nhất là mặt trời) luôn hoạt động khoẻ khoắn. - Con người có thể cải tạo hoàn cảnh, làm chủ thế giới. “Non xa xa…gây dựng một sơn hà” (Pác bó hùng vĩ). - Bút pháp phóng sự, lối văn thông tin tư liệu đem đến cho vần thơ tính thời sự, tả thực hi

File đính kèm:

  • docVAN 12(2).doc