Các Bài văn tiên tri của người xưa

doc5 trang | Chia sẻ: frankloveabc | Lượt xem: 1547 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các Bài văn tiên tri của người xưa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Các Bài văn tiên tri của người xưa
 
         Người Việt Nam ta chắc không còn một ai lấy làm lạ gì với những lối nói nửa úp nửa mở trong những lời tiên tri, những câu sấm ký đã xuất pháp từ cửa miệng của các bậc siêu nhân. Xin giới thiệu 3 vị trong lich sử Việt Nam 
Vạn Hạnh Thiền Sư

 Chúng ta đâu có thể nghi ngờ ở sở học uyên bác của Vạn Hạnh Thiền Sư [1], môt cao tăng thường được vua Lý Nhân Tông khen tặng bằng câu “Vạn Hạnh dong tam tế, chân phù cổ sấm ky”. Vậy mà lúc nhà Lê do vua Lê Đại Hành chấp chánh, Thiền sư nổi tiếng là bậc tiên tri, vẫn phải trả lời úp mở theo công thức sấm ký. Chẳng hạn, vua hỏi về việc phá Tống, sư đáp: “Nội ba bảy ngày thì giặc sẽ tan”; còn khi hỏi về việc bình Chiêm, thì sư chỉ nói một câu là: “khuyên nên đánh chóng”, mặc dù những lời giải đáp ấy trong tương lai, phải đúng vanh vách như ba lần bảy là hai mươi mốt...
         Thiền sư còn tiên đoán được việc nhà Lý sẽ thay nhà Lê, qua bài sấm được dịch nghĩa:
                    Tật Lê chìm biển Bắc
                    Cây Lý mọc trời Nam
                    Bốn phương tắt binh lửa
                    Thiên hạ mừng bình an.
         Sách Thiền Uyển Tập Anh và nhiều sử sách khác đều kể chuyện sư Vạn Hạnh đã đoán được bài sấm mà sâu ăn thành chữ trên cây vông gạo, và biết trước rằng nhà Lê sắp mất và nghiệp Lý sẽ thành. Do đó mà nhà sư nói cho Lý Công Uẩn biết chuyện và lập mưu đưa ông này lên ngôi vua. Những câu sấm ấy biết đâu chẳng là của thiền sư Vạn Hạnh!
         Bài sấm tương truyền như vầy:
                    Gốc cây trắng trắng
                    Vỏ cây xanh xanh
                    Hoa đao mọc ngã
                    Thập bát tử thành
                    Đông A nhập địa
                    Cây khác nảy sanh
                    Cung Chấn vầng nhật
                    Cung Đoài ẩn tinh
                    Khoảng sáu bảy năm
                    Thiên hạ thái bình
Nguyễn Bỉnh Khiêm [2],
 Trong thời Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất thân từ một Bạch diện thư sinh mà chỉ mỗi một lần đi thi, đã đổ ngay bằng cấp Văn Trạng và được phong đến Trình Quốc Công, nên tục gọi cụ là Trạng Trình. Thế mà khi cần đưa ra những gì về thiên hạ đại sự, nhất là việc chỉ điểm cho tương lai, cụ đều dùng toàn lối văn sấm ký.
         Chẳng hạn, trong đời Lê Chiêu Tôn, một bên là Trịnh Tuy, một bên là Mạc Đăng Dung, vì muốn tranh quyền nhiếp chính mà đánh nhau suốt mấy năm, cụ Trạng Trình đoán số Thái Ất, biết được nhà Lê sẽ phục nghiệp và họ Trịnh về sau sẽ đoạt quyền vua Lê nên đã nói lên trong một bài cảm hứng với hai câu:
                    Ngựa phi ắt có thời quay cổ
                    Thú dữ nên phòng lúc cắn người [4]
         Khi vua Lê băng, họ Trịnh muốn tiếm vị luôn, nhưng còn sợ lòng người, vẫn nhớ công đức nhà Lê mà chống lại mình, nên sai người đến hỏi ý kiến cụ Trạng. Trạng Trình không đáp thẳng lời sứ giả, mà chỉ nói với người nhà rằng:
                 “Giống mới thất mùa, hãy tìm giống cũ mà gieo mạ lại”
         Và cụ quay sang nói với thư đồng:
                 “Giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản”
         Họ Trịnh nghe lọt vào tai, cho người đi tìm con cháu nhà Lê (giống cũ) về làm vua, và chỉ đóng vai Chúa, nắm hết quyền binh (giữ chùa thờ Phật).
Nguyễn Thiếp [3]

(Nguy ễn
   Đến đời Lê mạt-Nguyễn sơ có cụ Nguyễn Thiếp là hạng văn tài lỗi lạc, được vua Quang Trung xem là bậc thầy và thế nhân tôn xưng là La Sơn Phu Tử. Cụ đã do thuật lý số mà tiên đoán:
                 “Sông ngư nước cạn, nhà Nguyễn trở về”
         hoặc là:
                 “Tùng lâm mãn địa, anh hùng tất tập ư Hoan Châu” (rừng thông đấy đất, anh hùng đều nhóm ở Hoan Châu)
         và:
                “Lam giang chi thủy nhập nộn hồ. Nam nhân nhập đế Trung quốc” (khi sông Lam chảy vào bàu Nón, thì người nước Nam vào làm vua Trung quốc.)
         Trong Hạnh am thi cảo của cụ có bài Sấm Ký mà cụ viết ra năm 58 tuổi như vầy:
                    Ba năm gió thuật bể thanh
                    Ông già đoán Dịch xem tình ra sao
                    Hang đông nhật mọc quỷ tiêu
                    Cõi tây xuân ấm lúa cao vầng dài
                    Khôn ngoan công lập ải ngoài
                    Thanh nhàn trốn ẩn vui vầy sống lâu
                    Nghĩa còn tuy cảnh khác nhau
                    Kể chi  khi sợ khi sầu tuy vui [5]    
     Người ta đã thấy ứng vào câu thứ ba, việc Nguyễn Hữu Chỉnh người Đông Hải, diệt họ Trịnh; ứng vào câu thứ tư, việc Quang Trung Hoàng Đế bình quân Thanh; ứng vào câu thứ năm, việc chúa Nguyễn Ánh khởi binh từ Gia Định; ứng vào hai câu cuối cùng, việc các sĩ phu chia rẽ vì kẻ ra, người ẩn trong thời thay ngôi đổi chúa, từ cuối Lê đến đầu Nguyễn.
         Còn biết bao nhiêu mẫu chuyện khác với những câu thơ, bài văn mang tính chất hư hư thực thực, nhiều khi mập mờ tối nghĩa, tuy rằng các tác giả vốn dĩ là những người bác học đa tài. Nhưng thiết tưởng đưa ra vài chứng tích như trên, cũng đủ gợi thêm cho vấn đề thêm sáng.
 * * *
[1] Vạn Hạnh (938 – 1025) là tên một vị thiền sư người Việt có nhiều đóng góp trong việc mở ra triều đại nhà Lý, một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là cố vấn của vua Lê Đại Hành, là người thầy của Lý Công Uẩn, đã hướng dẫn cho vị này một thời gian dài trước và sau khi triều Lý thành lập. Ông cũng là một nhà tiên tri.
[2],Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585), tên huý là Nguyễn Văn Đạt, tên tự là Hanh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Namtrong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển củalịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535) và làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. 
Người đời coi ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam đồng thời lưu truyền nhiều câu sấm ký được cho là bắt nguồn từ ông và gọi chung là Sấm Trạng Trình. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được coi là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt Nam một cách có ý thức nhất thông qua các văn tự của ông còn lưu lại đến ngày nay.
[3] Nguyễn Thiếp (1723 - 1804), là nhà giáo và là danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam
Năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt họ Trịnh, có sai người đưa thư và vàng lụa lên sơn trại mời ông ra giúp việc nhưng ông từ chối.
Tháng 4 năm Mậu Thân (1788), trên đường ra Thăng Long trừ Vũ Văn Nhậm, tướng Nguyễn Huệ lại gửi thư mời ông xuống hội kiến ở Lam Thành, lời thư rất tha thiết, nên ông đành xuống núi nhưng vẫn chưa chịu ra giúp .
Cuối năm 1788, sau khi lên ngôi Hoàng đế tại núi Bân (Huế), vua Quang Trung (tức Nguyễn Huệ) kéo quân ra Bắc, đến Nghệ An nghỉ binh, nhà vua lại triệu Nguyễn Thiếp đến hỏi kế sách đánh đuổi quân Thanh xâm lược, Nguyễn Thiếp nói:
 "Người Thanh ở xa tới mệt nhọc không biết tình hình khó dễ thế nào. Vả nó có bụng khinh địch, nếu đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó". 
Lời tâu này rất hợp ý vua.
Sau đại thắng vào đầu xuân Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung về đến Nghệ An lại mời Nguyễn Thiếp đến bàn quốc sự.
 [4] Ngựa phi ... quay cổ chỉ nhà Lê
       Thú Dữ ... cắn người ... chỉ họ Trịnh
[5] Bản dịch của Hoàng Xuân Hãn, trong sách La Sơn Phu Tử do nhà Minh Tân xuất bản tại Paris 1952.
 PHH sưu tầm & giới thiệu 8 – 2013 - Nguồn Wikipedia - int ernet


File đính kèm:

  • docCác Bài văn tiên tri của người xưa.doc