Ôn tập Phần văn học Việt Nam

doc41 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1142 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Ôn tập Phần văn học Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN VĂN HỌC VIỆT NAM
TÁC GIA: NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH
I. TIỂU SỬ:
1. Tóm tắt nét chính về tiểu sử:
2. Những yếu tố góp phần tạo nên sự nghiệp văn học:
- Người đã sinh ra trên quê hương và gia đình có truyền thống hiếu học, yêu nước
- Người đã sinh ra trong hoàn cảnh nước mất, nhà tan-> tình yêu nước cháy bỏng nên Người đã chọn cho mình sự nghiệp cứu nước
- Trong hoạt động CM, Người nhận thức văn chương như là vũ khí
- Người có một tài năng thực sự
II. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC :
1. Quan điểm sáng tác :
-HCM xem văn nghệ là một hoạt động tinh thần, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp CM, nhà văn cũng phải ở giữa cuộc đời, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh và phát triển XH
- HCM đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức văn chương trong thời đại CM phải coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục vụ.
- HCM luôn quan niệm TP văn chương phải có tính chân thật
2. Các tác phẩm : 3 lĩnh vực: văn chính luận, truyện kí, thơ ca.
a, Văn chính luận: Các bài báo, Bản án chế độ thực dân Pháp; Tuyên ngôn độc lập; lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến(1946); không có gì quí hơn độc lập tự do(1966); di chúc(1969)
b, Truyện và kí: Vi hành; Nhật kí ; Giấc ngủ 10 năm; Vừa đi đường vừa kể truyện(1963)
c, Thơ ca: Nhật kí trong tù(1942-1943); thơ HCM(1967); thơ chữ Hán HCM(1990)
III. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT:
-Đa dạng mà thống nhất, kết hợp sâu sắc mà nhuần nhuỵ giữa chính trị và văn chương, giữa tư tưởng và nghệ thuật, giữa truyền thống và hiện đại
-Ở mỗi thể loại, người đều có phong cách riêng, độc đáo:
+Văn chính luận bộc lộ tư duy sắc sảo,giàu tri thức văn hoá, gắn lý luận với thực tiễn,giàu tính luận chiến, vận dụng có hiệu quả nhiều phương thức biểu hiện
+Truyện và kí: ngòi bút chủ động, sáng tạo đậm chất trí tuệ và hiện đại, có tính chiến đấu cao
+Thơ:
*Thơ tuyên truyền: giản dị, gần gũi, đễ thuộc, dễ nhớ
*Thơ nghệ thuật : hàm súc, uyên thâm, cổ điển mà hiện đại, thép mà tình.
.................................................................................................................................................................................
VI HÀNH
 NGUYỄN ÁI QUỐC
I. TÌM HIỂU CHUNG:
1. Hoàn cảnh sáng tác- Mục đích sáng tác:
- 1922 thực dân Pháp đưa vua Khải Định sang Pháp
- 1923 NAQ đã viết một loạt TP để vạch trần âm mưu của chính phủ Pháp và lật tẩy bộ mặt bù nhìn bán nước của Khải Định
- Đối tượng sáng tác là người dân Pari Bác viết bằng tiếng Pháp theo nghệ thuật Châu Âu hiện đại
2. Chủ đề: vạch trần bộ mặt thật bù nhìn lố lăng của Khải Định và âm mưu thâm độc nham hiểm của thực dân Pháp đối với nhân dân các nước thuộc địa
II. PHÂN TÍCH:
1. Giá trị nội dung:
a, Châm biếm lật tẩy bản chất bù nhìn của KĐ
* Chân dung KĐ qua cái nhìn của nhân dân Pháp
- Diện mạo : mũi tẹt, mặt bủng như vỏ chanh
- Trang phục : ngón tay đeo đầy những nhẫn, cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn
- Cử chỉ thái độ: nhút nhát, lúng túng
- Hành động : lén lút có mặt tại trường đua, tiệm cầm đồ, ga tàu điện ngầm
-> KĐ hiện lên nh một thứ đồ cổ xa lạ kệch cỡm lố lăng trong XH phương tây hiện đại hắn không có tư cách của một đế vương
- Chân dung KĐ được dựng lên qua sự miêu tả của đôi trai gái người Pháp-> đảm bảo được tính khách quan
- Họ gọi KĐ là hắn, người khách của chúng ta, anh vua, so sánh với những trò giải trí tầm thường-> vua KĐ như một thứ đồ chơi, một con rối, một trò giải trí rẻ tiền
=> Hạ bệ KĐ hắn không xứng đáng là kẻ đại diện quốc gia chuyến đi của hắn chỉ nhằm mục đích đàng điếm không phải vì lợi ích của đất nước
* Lời kết tội KĐ qua liên tưởng bình luận của người kể truyện
- Nhờ đến chuyện xa, vua Thuấn- Pie-> họ vi hành xứng đáng-> phê phán KĐ với những hành tung mờ ám tầm thường-> kết tội KĐ: tội làm nhục quốc thể
- Tác giả đặt ra rất nhiều câu hỏi : phải chăng ngài muốn biết…=> chất vấn KĐ từ đó đi đến kết tội KĐ: hại nước hại dân, bán nước và làm tay sai cho Pháp
b. Vạch trần bộ mặt giả rối thâm độc của thực dân Pháp:
* Tố cáo chính sách cai trị của Pháp ở thuộc địa
- “ Công bảo hộ” khai thác và làm kiệt quệ kinh tế tài chính Đông Dương: Nhà băng Đông Dơng luôn cạn ráo=> chính sách bóc lột
- “Công khai hoá” bằng rượu cồn và thuốc phiện=> chính sách ngu dân
* Tố cáo chính sách khủng bố ở chính quốc:
- Vạch trần luận điệu “tự do bình đẳng bác ái” : ngay tại nước Pháp chính phủ Pháp đã thi hành chính sách khủng bố theo dõi những người yêu nước Việt Nam trên nước Pháp
=>: Tác phẩm đạt được cả hai mục đích phản đế và phản phong
2. Những sáng tạo nghệ thuật:
a, Những tình huống nhầm lẫn độc đáo
- Đôi trai gái người Pháp nhầm TG là KĐ.
- Dân chúng Pháp nhầm những người VN trên đất Pháp là KĐ
- Chính phủ Pháp nhầm những người An Nam trên đất Pháp đều là KĐ
=> 3 tình huống liên tiếp tăng cấp
* ý nghĩa:
- Thể hiện thái độ khách quan của người kể chuyện
- Tình huống như đùa như bịa làm tăng tính hài hước khiến cho KĐ hiện lên càng trở lên lố bịch như một câu truyện tiếu lâm
b, Hình thức viết thư :
- Bác viết thư cho cô em họ ở An Nam
* ý nghĩa: tạo được sự gần gũi và không khí như thật
-Khiến cho TP hấp dẫn mang dáng dấp một bức thư tình
- Có thể đưa ra những phán đoán giả định
- Đổi giọng chuyển cảnh kinh hoạt, liên hệ tạt ngang so sánh thoải mái
c, Những thành công khác:
- Nghệ thuật làm báo
- Ngôn ngữ sinh động hấp dẫn đa giọng điệu
- Thể văn trào phúng thâm thuý sâu cay
- Nghệ thuật dựng chân dung độc đáo, miêu tả KĐ mà không cần KĐ xuất hiện
III. TỔNG KẾT:
- Vi hành thể hiện sức mạnh trong ngòi bút chiến đấu của HCM
- Vi hành cũng thể hiện tài năng văn chương của Bác
.................................................................................................................................................................................
CHIỀU TỐI
HỒ CHÍ MINH
I. HOÀN CẢNH SÁNG TÁC
-“Mộ” (Chiều tối) bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 31.
-Hồ Chí Minh viết bài thơ này đang trên đường bị giải tới nhà lao Thiên Bảo. Sau một ngày dài bị giải đi, trời tối dần.
II. PHÂN TÍCH
1. Thiên nhiên lúc chiều muộn
-Hai câu đầu tả cảnh bầu trời lúc chiều tối. Cánh chim mỏi (quyện điểu) về rừng tìm cây trú ẩn.
+Áng mây lẻ loi, cô đơn (cô vân) trôi lững lờ trên tầng không. Cảnh vật thoáng buồn.
+Hai nét vẽ chấm phá (chim và mây), lấy cái nhỏ bé, cái động để làm nổi bật bầu trời bao la, cảnh chiều tối lặng lẽ và buồn.
-Cánh chim mỏi và áng mây cô đơn là hai hình ảnh vừa mang tính ước lệ trong thơ cổ tả cảnh chiều tối, vừa là hình ảnh ẩn dụ về người tù bị lưu đày trên con đường khổ ải mờ mịt vạn dặm:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
1. Thiên nhiên lúc chiều muộn
-Trời tối rồi, tù nhân bị giải đi qua một xóm núi. Có bóng người (thiếu nữ). Có cảnh làm ăn bình dị: xay ngô. Có lò than đã rực hồng (lô dĩ hồng).
-Các chi tiết nghệ thuật ấy làm hiện lên một mái ấm gia đình, một cảnh đời dân dã, bình dị, “ấm áp”. Nếu chim trời, áng mây chiều đồng điệu với tâm hồn nhà thơ thì cảnh xay ngô của thiếu nữ và lò than rực hồng kia như đang làm vợi đi ít nhiều nỗi đau khổ của người đi đày khi qua nơi miền sơn cước xa lạ. Tương phản với màn đêm bao trùm không gian, cảnh vật là “lò than đã rực hồng”. Tứ thơ vận động từ bóng tối hướng về ánh sáng. Nó cho ta thấy, trong cảnh ngộ cô đơn, nặng nề, bị tước mất tự do, bị ngược đãi, người chiến sĩ cách mạng, nhà thơ Hồ Chí Minh vẫn gắn bó, chan hòa, gần gũi với nhịp đời thường cần lao. Câu thơ thứ 3 dịch chưa được hay. Chữ “cô em” hơi lạc điệu. Thêm vào một chữ “tối” đã mất đi ý vị “ý tại ngôn ngoại” vẻ đẹp hàm súc của thơ chữ Hán cổ điển
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
=>Bài thơ có cảnh bầu trời và xóm núi, có áng mây, cánh chim chiều. Chim về rừng, mây lơ lửng. Có thiếu nữ xay ngô và lò than hồng. Đằng sau bức tranh cảnh chiều tối là một nỗi niềm buồn, cô đơn, là một tấm lòng hướng về nhân dân lao động, tìm thấy trong khoảnh khắc chiều tối. Nghệ thuật mượn cảnh để tả tình. Điệu thơ nhè nhẹ, man mác bâng khuâng, đậm đà màu sắc cổ điển. Tinh tế trong biểu hiện, đậm đà trong biểu cảm là vẻ đẹp trữ tình của bài thơ “Chiều tối” này… Rất nhân hậu, rất người.
.................................................................................................................................................................................
GIẢI ĐI SỚM
 HỒ CHÍ MINH
 	I. HOÀN CẢNH SÁNG TÁC
-Tảo giải (Giải đi sớm) là chùm thơ 2 bài 42, 43 trong “Ngục trung nhật ký” của Hồ Chí Minh.
-Trên đường chuyển lao từ Long An đến Đồng Chính, Hồ Chí Minh viết chùm thơ này. Như một trang ký sự của người đi đày thế nhưng đằng sau cảnh sắc thiên nhiên hé lộ một hồn thơ khoáng đạt, mạnh mẽ và tự tin, yêu đời.
 II. PHÂN TÍCH
Bài I: ngay câu đầu ghi lại thời điểm chuyển lao:
-“Gà gáy một lần, đêm chửa tan”. Đó là lúc nửa đêm về sáng. Chỉ có chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi thu. Trăng sao được nhân hóa như cùng đồng hành với người đi đày. Cái nhìn lên bầu trời trong cảnh khổ ải thể hiện một tâm thế đẹp. Hai câu 3, 4 nói về con đường mà tù nhân đang đi là con đường xa (chinh đồ). Gió thu táp vào mặt từng cơn từng cơn lạnh lẽo.
-Trong câu thơ chữ Hán, chữ “chinh” chữ “trận” được điệp lại hai lần (chinh nhân, chinh đồ; trận trận hàn), làm cho ý thơ rắn rỏi, nhịp thơ mạnh mẽ. Nó thể hiện một tâm thế rất đẹp. Mặc dù áo quần tả tơi, thân thể tiều tụy nhưng người chiến sĩ vĩ đại vẫn đứng vững trước mọi thử thách nặng nề: đêm tối, đường xa, gió rét…
Bài II, nói về cảnh rạng đông.
-Cái lạnh lẽo, cái u ám của đêm thu còn rơi rớt lại chốc đã bị quét hết sạch. Phương đông từ màu trắng đã thành hồng. Hơi ấm tràn ngập đất trời, vũ trụ.
-Trước một không gian bao la có màu hồng, có hơi ấm của rạng đông, “chinh nhân” (người đi xa) đã hóa thành “hành nhân” (người đi). Hình như mọi đau khổ bị tiêu tan trong khoảnh khắc.
-Người đi đày đã trở thành con người “tự do”, thi hứng dâng lên dào dạt nồng nàn. Niềm vui đón cảnh rạng đông đẹp và ấm áp. Một đêm lạnh lẽo đã trôi qua.
-Tứ thơ vận động từ tối qua rạng đông tráng lệ, từ lạnh lẽo đến hơi ấm. Người đọc có cảm giác nhà thơ đi đón bình minh, đón ánh sáng và niềm vui cuộc đời.
=>Chùm thơ “Tảo giải” cho thấy tinh thần chịu đựng gian khổ làm chủ hoàn cảnh và phong thái ung dung, lạc quan yêu đời của nhà thơ Hồ Chí Minh trong cảnh đọa đầy. “Tảo giải” là bài ca của người đi đày, hàm chứa chất “thép” thâm trầm, sâu sắc mà “không hề nói đến thép, lên giọng thép”.
.................................................................................................................................................................................
MỚI RA TÙ, TẬP LEO NÚI
 HỒ CHÍ MINH
 	 I. HOÀN CẢNH SÁNG TÁC
 “Nhật ký trong tù” gồm có 133 bài thơ, phần lớn là thơ tứ tuyệt. Bài thơ “Mới ra tù, tập leo núi” không nằm trong số 133 bài thơ ấy. Một số tài liệu cho biết, ngày 10/9/1943, tại nhà giam Liễu Châu, Hồ Chí Minh đã giành được tự do. Ra tù, chân yếu, mắt mờ, tóc bạc. Người đã kiên trì tập luyện để phục hồi sức khỏe. Tập leo núi, và khi leo đến đỉnh núi, Bác cao hứng viết bài thơ này. Bài tứ tuyệt “Mới ra tù, tập leo núi” được Bác Hồ viết vào rìa một tờ báo Trung Quốc, kèm theo dòng chữ: “Chúc chư huynh ở nhà mạnh khỏe và cố gắng công tác. Ở bên này bình yên”. Ngoài mục đích bí mật nhắn tin về nước, bài thơ thể hiện một tình yêu nước và thương nhớ đồng chí, bạn bè của Hồ Chủ tịch.
 	 II. PHÂN TÍCH
1. Hai câu đầu : bức tranh sơn thủy hữu tình
 	-Hai câu đầu là hai câu thơ tuyệt bút tả cảnh sơn thủy hữu tình. Có mây, núi ôm ấp quấn quýt. Có lòng sông như tấm gương trong, không gợn một chút bụi nào! Câu thơ dịch khá hay:
“Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,
Lòng sông gương sáng bụi không mờ”
 	-Ba nét vẽ chấm phá đã lột tả được cái hồn cảnh vật. Nghệ thuật sử dụng điệp ngữ, nhân hóa và so sánh đã làm hiện lên phong cảnh sơn thủy hùng vĩ và hữu tình. Bức tranh sơn thủy được miêu tả ở tầm cao và xa, đậm đà màu sắc cổ điển. Trong bối cảnh lịch sử bài thơ ra đời, hình ảnh mây, núi, lòng sông mang hàm nghĩa sâu sắc, tượng trưng cho tâm hồn trong sáng, cao cả và thủy chung của con người.
2. Hai câu sau : tâm trạng người tù
-Hai câu 3, 4 thể hiện một tâm trạng rất điển hình của người chiến sĩ cách mạng đang ở 
nơi đất khách quê người. Từ Tây Phong Lĩnh (Liễu Châu) đến Nam thiên là muôn dặm xa cách. Vừa leo núi, dạo bước mà lòng bồi hồi, bồn chồn, không yên dạ. Leo núi đến tầm cao rồi ngóng nhìn xa (dao vọng) trời Nam, quê hương đất nước mà lòng xúc động “nhớ bạn xưa” (Ức cố nhân):
“Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh
Trông lại trời Nam nhớ bạn xưa”
 	-Ngôn ngữ thơ trang trọng, giàu biểu cảm, mỗi chữ là một nét, một mảnh tâm hồn của người chiến sĩ vĩ đại. “Bồi hồi”, “dao vọng”, “Nam thiên”, “ức cố nhân”… đó là tấm lòng của một con người nặng tình non nước “Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước – Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà”… (Chế Lan Viên).
 	-Ức hữu, ức cố nhân,… là cảm xúc đằm thắm được diễn tả trong nhiều bài thơ “Nhật ký trong tù”. Lúc thì “Nội thương đất Việt cảnh lầm than” (ốm nặng). Khi thì “Nghìn dặm, bâng khuâng hồn nước cũ – Muôn tơ vương vấn một sầu nay” (Đêm thu).
 =>Tóm lại, “Mới ra tù, tập leo núi” là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Tình yêu thiên nhiên gắn liền với tình yêu đất nước sâu nặng. Hàm súc và mầu sắc cổ điển là vẻ đẹp của bài thơ. 
.................................................................................................................................................................................
TÂM TƯ TRONG TÙ
 TỐ HỮU
 	I. HOÀN CẢNH SÁNG TÁC
- “Từ ấy” - tập thơ 10 năm của Tố Hữu (1937 – 1946) hiện có 72 bài thơ.
 - Bài “Tâm tư trong tù” là bài thơ số 30, được Tố Hữu viết tại nhà lao Thừa Thiên vào cuối tháng 4 năm 1939, mở đầu cho phần “Xiềng xích” của tập “Từ ấy”.
 	II. PHÂN TÍCH
Viết theo thể thơ tự do, 4 câu đầu được nhắc lại 2 lần trở thành điệp khúc gợi tả cảnh thân tù với bao nỗi buồn cô đơn và lòng khao khát tự do. Câu cảm thán vang lên bồi hồi đầy ám ảnh:
“Cô đơn thay là cảnh thân tù!
...
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!”
“Cảnh thân tù” là sàn lim với “mảnh ván ghép sầm u”, là nơi “lạnh lẽo bốn tường vôi khắc khổ”, là chốn “âm u” của địa ngục trần gian! Đối lập với “cảnh thân tù” là “tiếng đời lăn náo nức” – âm thanh của cuộc sống, là tiếng gọi của tự do. Một chữ “nghe” được nhắc lại nhiều lần, nhịp điệu thơ tha thiết ngân vang. Lòng yêu đời, yêu cuộc sống, niềm khao khát tự do càng trở nên sôi sục, mạnh mẽ:
“Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều
...
Nghe mênh mang sức khỏe của trăm loài”
Người chiến sĩ trẻ lần đầu bị thực dân Pháp bắt bớ, giam cầm. Hầu như suốt đêm ngày thao thức “lắng nghe” những âm thanh, “những tiếng đời lăn náo nức” lay gọi. Tâm tư xao xuyến, bồi hồi, mênh mang. Trong hoàng hôn, tiếng dơi đập cánh nghe sao mà “vội vã”. Và giữa đêm khuya, một tiếng “lạc ngựa”, một cái “rùng chân”, một “tiếng guốc đi về”, tiếng “gió xối” - tất cả là âm thanh cuộc đời, gần gũi, thân quen, nhưng giờ đây trong cảnh thân tù những âm thanh ấy mang một ý nghĩa vô cùng mới mẻ, đó là tiếng gọi tự do, là tiếng lòng sôi sục, trẻ trung và căng đầy nhựa sống.
“Tâm tư trong tù” là sự thể hiện một cách chân thật, cảm động những suy ngẫm về tự do, để tự vượt mình, tự khẳng định mình của người chiến sĩ cách mạng trong xiềng xích uất hận. Phút mơ hồ về “một trời rộng rãi”, về một “cuộc đời sây hoa trái”, về “hương tự do thơm ngát cả ngàn ngày” đã bị nhà thơ tự phủ định. Cả một dân tộc đang quằn quại trong xích xiềng nô lệ “đọa đày trong những hố thẳm không cùng”. Đất nước đang bị thực dân Pháp thống trị. Dù ở trong song sắt hay ở ngoài song sắt nhà tù, mỗi con người Việt Nam đều là vong quốc nô. Nhận thức mới về tự do được diễn tả qua hai hình ảnh tương phản đầy ý nghĩa:
“Tôi chiều nay, giam cấm hận trong lòng,
...
Vứt trong lồng con giữa một lồng to”
“Con chim non bé nhỏ” ấy đang bay đi trong bão táp. Cũng như trong bài thơ “Trăng trối” viết tại nhà tù Lao Bảo cuối năm 1940, Tố Hữu tự nhận mình là “tên lính mới”: “Và bên bạn, chỉ là tên lính mới – Gót chân tơ chưa dày dạn phong trần”.
Vấn đề sống và chết được đặt ra một cách nghiêm túc, quyết liệt để khẳng định nhân cách và lẽ sống cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đày. Ánh sáng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, mẫn cảm chính trị… đã giúp nhà thơ trẻ vượt lên trên một tầm vóc mới. Không phải đến Tố Hữu mới có bài học về “uy vũ bất năng khuất” mà từ nghìn xưa ông cha ta, tổ tiên ta đã nêu gương sáng “ngẩng cao đầu” đi tới cho con cháu trên hành trình lịch sử. Có điều, trong bài thơ này, Tố Hữu đã nối tiếp người xưa, làm rạng rỡ “mạch giống nòi”, sáng tạo nên những vần thơ mới sôi trào, hừng hực một quyết tâm chiến đấu kiên cường:
“Tôi chỉ một giữa muôn người chiến đấu
Vẫn đứng thẳng trên đường đầy lửa máu
Chân kiêu căng không thoái bộ bao giờ!”
Con đường phía trước là máu và nước mắt, là “đày ải”, là “thế giới của ưu phiền”, nhưng người chiến sĩ cách mạng vẫn sáng ngời niềm tin. Câu thơ vang lên trang nghiêm, hùng tráng như một lời thề chiến đấu:
“Nơi đày ải là Đắc Pao, Lao Bảo
...
Giữ trinh bạch linh hồn trong bụi bẩn”.
“Giữ trinh bạch linh hồn” là một cách nói “rất Tố Hữu” về giữ vững khí tiết cách mạng, lòng trung thành với Tổ quốc và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Phần cuối, âm điệu dồn dập dư ba. Ngôn ngữ thơ trùng điệp. Một quyết tâm chiến đấu và hy sinh không súng đạn, máy chém 
nào của thực dân Pháp có thể khuất phục được:
“Tôi chưa chết, nghĩa là chưa hết hận
...
Còn trừ diệt cả một loài thú độc!”
Khép lại bài thơ là âm thanh một tiếng còi xa rúc gọi: “Có một tiếng còi xa trong gió rúc”. Đó là tiếng gọi lên đường đấu tranh. Như một mệnh lệnh trang nghiêm! Sống và chết vì tự do!
=>Viết theo thể thơ mới, điệu thơ hùng hồn, mạnh mẽ, lý tưởng cách mạng, tinh thần chiến đấu hy sinh được khẳng định như một lời thề. Tâm tư trong tù phản ánh chân thực niềm khao khát tự do và dũng khí giữ vững niềm tin của người thanh niên cộng sản trong chốn tù ngục. Đó là phần đóng góp của thơ Tố Hữu trong “Từ ấy”. Đẹp nhất, đáng khâm phục nhất là Tố Hữu đã sống và chiến đấu như thơ ông đã viết. Đó là bài học về nhân sinh quan cách mạng mà hơn nửa thế kỷ sau vẫn làm chấn động hồn ta.
.................................................................................................................................................................................
BÀI KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM 1945 - 1975
I. THÀNH TỰU VĂN HỌC:
1.Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 -1954):
a.Văn xuôi:
 	Truyện ngắn và ký là thể loại cơ đông mở đầu cho Văn xuôi thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Tiêu biểu là Một lần tới Thủ đô của Trần Đăng, Đôi mắt của Nam Cao, Làng của Kim Lân...Từ 1950 bắt đầu xuất hiện những tác phẩm Văn xuôi dài hơi như Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Xung Kích của Nguyễn Đình Thi, Ký sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc...
b.Thơ ca:
 Thơ ca kháng chiến giàu lòng yêu nước và tinh thần căm thù giặc. Nghệ thuật thơ hướng về dân tộc. Tiêu biểu cho Thơ ca kháng chiến là tập Việt Bắc của Tố Hữu, ngoài ra là một số tác phẩm hay của Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Chính Hữu, Quang Dũng...
c.Nghệ thuật sân khấu: cũng xuất hiện những hình thức hoạt đọng mới với sự đóng góp của Nguyễn Huy Tưởng, Thế Lữ, Đoàn Phú Tứ...
2.Thời kỳ xây dựng hoà bình chủ nghĩa xã hội (1955 - 1964):
a.Văn xuôi: 
Mở rộng đề tài về phạm vi cuộc sống. Đề tài kháng chiến chống thực dân Pháp vẫn tiếp tục được khai thác với những tác phẩm: Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai, Trước giờ nổ súng của Lê Khâm; đề tài về cuộc sống trước Cách mạng tháng Tám: Mười năm của Tô Hoài, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Tranh tối tranh sáng của Nguyễn Công Hoan, Cửa biển của Nguyên Hồng....; đề tài về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc được các nhà văn Đào Vũ, Vũ Thị Thường, Chu Văn, Nguyễn Khải...có nhiều đóng góp.
b.Thơ ca: 
Hướng vào việc ca ngợi cuộc sống mới, con người mới với những sáng tác tiêu biểu của Tố Hữu (Gió lộng), Chế Lan Viên (Ánh sáng và phù sa), Xuân Diệu (Riêng chung), Huy Cận (Đất nở hoa)...đề tài đấu tranh thống nhất đất nước có thơ của Tế Hanh, Tố Hữu, Chế Lan Viên...
c.Nghệ thuật sân khấu : Kịch nói có nhiều bước phát triển đáng kể với những sáng tác của Học Phi, Đào Hồng Cẩm..
3. Thời kỳ chống Mỹ cứu nước (1965 -1975)
a.Văn xuôi: phát triển mạnh ở cả hai miền:
* Miền Nam: Nguyễn Thi với Người mẹ cầm súng, Trần Đình Vân với Sống như Anh, Anh Đức với Hòn Đất, Nguyễn Trung Thành với Đất Quảng...
 	* Miền Bắc: Nguyễn Minh Châu với Dấu chân người lính, Hữu Mai với Vùng trời, Nguyễn Khải với Chiến sỹ, Nguyễn Đình Thi với Mặt trận trên cao...
b.Thơ ca: 
Thơ chống Mỹ tập trung vào chủ đề yêu nước, giàu chất hiện thực, suy tưởng, chính luận với sự đóng góp của nhiều thế hệ: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Duy...
c. Nghệ thuật sân khấu: Đạt nhiều thành tựu xuất sắc với các vở kịch có giá trị của Đào Hồng Cẩm, Nguyễn Vũ, Trần Quán Anh...
Văn học đô thị miền Nam vẫn có nhiều tác phẩm theo khuynh hướng yêu nước và tiến bộ của Lê Vĩnh Hoà, Lí Văn Sâm, Sơn Nam, Viễn Phương, Vũ Hạnh...
II. MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM CHUNG:
1.Lý tưởng và nội dung yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội là đặc điểm nổi bật của văn học giai đoạn này: Biết khai thác những sự kiện lớn lao của Dân tộc và biết đánh giá từ tầm nhìn cao, xa của lịch sử nên nhiều tác phẩm đã đạt tầm vóc của thời đại. Văn học ở vị trí hàng đầu với sức sáng tạo của nhà văn - chiến sỹ. Nền văn học ấy chứa chan tình cảm yêu nước và cao hơn, là chủ nghĩa anh hùng của thời đại cách mạng vô sản. Nó cũng là sự hội tụ của nhiều dân tộc anh em sống trên dải đất thống nhất
2. Nền văn học Cách mạng mang tính nhân dân sâu sắc: Nền văn học mới đã đúc kết và miêu tả được nhiều giá trị cao đẹp về nhân dân anh hùng. Cuộc sống kiên cường và mạnh mẽ, nhân hậu bao la đã làm nền và tạo cảm hứng cho sức sáng tạo.Nền văn học mới được hình thành trong những điều kiện thử thách của lịch sử nên những trang viết từ sâu thẳm cuộc đời vất vả gian truân thường có sức nặng riêng, rất đáng trân trọng
3. Một nền văn nghệ có nhiều thành tựu về sự phát triển các thể loại và phong cách tác giả độc đáo: Điểm nổi bật là có sự phát triển tương đối đồng đều giữa các thể loại, thơ và truyện ngắn có nhiều thành công rõ rệt, tiểu thuyết có những bước phát triển quan trọng, đề tài đa dạng, phong phú. Lý luận phê bình có nhiều thành tựu qua việc triển khai quan điểm văn nghệ theo đường lối của Đảng và chủ nghĩa Mác -Lênin, phát triển phê bình văn học với những chuẩn mực, phương pháp luận mới, phê phán những luận điểm văn nghệ đối lập với sự đóng góp lớn lao của Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Hà Xuân Trường...Nền văn học cách mạng đã hình thành nhiều phong cách sáng tác mới. Bên cạnh những phong cách của những nhà văn đã thành danh như Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu..., xuất hiện thêm phong cách của một lớp nhà văn mới trưởng thành trong những năm tháng chiến đấu như Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Chính Hữu...
.................................................................................................................................................................................
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
 HỒ CHÍ MINH
I. HOÀN CẢNH SÁNG TÁC
-Ngày 19/8/1945 chính quyền ở thủ đô Hà Nội đã về tay nhân dân ta. 23/8/1945, tại Huế trước hàng vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại thoái vị. 25/8/1945, gần 1 triệu đồng bào Sài Gòn-Chợ Lớn quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy 10 ngày, Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám đã thành công rực rỡ.
-Cuối tháng 8/1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Và ngày 2/9/1945; tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới Độc lập, Tự do.
II. BỐ CỤC
1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập (Từ đầu đến “không ai chối cãi được”)
2. Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp và quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta (“Thế mà hơn 80 năm nay… Dân tộc đó phải được độc lập!”)
3. Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố với thế giới (Phần còn lại).
III. PHÂN TÍCH
1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập
-Là khẳng định quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Đó là những quyền không ai có thể xâm phạm được; người ta sinh ra phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Hồ Chủ Tịch đã trích dẫn 2 câu nổi tiếng trong 2 bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, trước hết là để khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn, cao đẹp của thời đại, sau nữa là “suy rộng ra…” nhằm nêu cao một lý tưởng về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do của các dân tộc trên thế giới.
-Cách mở bài rất đặc sắc, từ công nhận Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng thời đại đi đến khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là kh

File đính kèm:

  • docon thi tot nghiep.doc
Đề thi liên quan