Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ

doc44 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1280 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHỊ LUẬN VỀ MỘT BÀI THƠ, ĐOẠN THƠ

Yêu cầu của bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
Người viết cần thể hiện khả năng cảm thụ và nhận thức cái hay, cái đẹp về nội dung cũng như hình thức của bài thơ, đoạn thơ thông qua việc phân tích, giảng bình, lí giải và thẩm định văn bản.
2. Cách thức triển khai bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
- Để triển khai bài văn cần căn cứ vào đặc trưng thể loại. Có nghĩa là tìm hiểu, khám phá về hình tượng chủ thể trữ tình, về dòng cảm xúc, tâm trạng của chủ thể trữ tình được bộc lộ cụ thể qua kết cấu, hình ảnh, nhịp điệu, ngôn ngữ, … của bài thơ, đoạn thơ.
- Có thể triển khai theo các bước:
+ Giới thiệu khái quát bài thơ, đoạn thơ cần phân tích, bình giảng, bàn luận.
+ Phân tích, bình giảng, bàn luận cần dựa vào mạch vận động của cảm xúc, suy tư.
+ Khái quát, đánh giá những giá trị nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ. 
-Trong khi viết, cần phối hợp các thao tác lập luận: giải thích, chứng minh, bình luận, … Cần diễn đạt ngắn gọn, trong sáng, nhất là cần nêu bật suy nghĩ riêng của bản thân.
3. Kĩ năng cần rèn luyện
- Cần sự nhạy cảm, tinh tế và sáng suốt để tìm hiểu, khám phá và thẩm định đúng những giá trị nội dung và nghệ thuật của một bài thơ, đoạn thơ. Mọi khám phá giá trị nội dung cũng như nghệ thuật đều phải dựa trên các tiêu chí khách quan, mọi sự cắt nghĩa, lí giải nhất thiết phải có lí lẽ xác đáng, có cơ sở khoa học, tránh suy diễn, áp đặt.
- Huy động kiến thức văn học và những trải nghiệm của bản thân để tạo lập văn bản nghị luận phù hợp với yêu cầu đề bài. Kiến thức được nêu ra cần có sự hài hòa giữa cái chung và cái riêng, giữa tri thức phổ quát và nhận thức chủ quan của bản thân; nhưng quan trọng nhất là cần một tri thức rộng và sâu, những trải nghiệm của bản thân cần được kết hợp trình bày một cách hợp lí, chặt chẽ và thuyết phục.
4. Phân tích đoạn thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc … Sông Mã gầm lên khúc độc hành” trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũng.
- Đoạn thơ khắc họa hình ảnh những người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng, hào hoa và bi tráng.
- Khí phách oai phong, lẫm liệt, sức mạnh phi thường dù thực tế là sốt rét rụng tóc, da xanh mét.
- Tâm hồn trẻ trung, hào hoa, lãng mạn.
- Tinh thần xả thân vì lí tưởng, sự hi sinh cao cả được nhân dân và đất nước ngưỡng vọng (Hướng đến với lòng hi vọng, trông đợi/với lòng kính trọng, khâm phục).
- Sự kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn; hình ảnh gợi cảm, gây ấn tượng sâu sắc; giọng thơ chắc khỏe, giàu nhạc tính; ngôn ngữ tạo hình độc đáo, … đã góp phần khắc họa sinh động hình tượng người lính Tây Tiến.

NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TÁC PHẨM, MỘT ĐOẠN TRÍCH VĂN XUÔI

Yêu cầu của bài văn nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi
Người viết cần thể hiện được những hiểu biết đúng đắn về tác phẩm hay đoạn trích, chỉ ra những giá trị nổi bật về nội dung và nghệ thuật. Việc phân tích, bình luận cần khách quan, khoa học dựa trên văn bản.
2. Cách thức triển khai bài văn
- Giới thiệu khái quát về tác phẩm hoặc đoạn trích cần nghị luận; bàn về những giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, đoạn trích theo định hướng của đề bài; đánh giá chung về tác phẩm, đoạn trích đó.
- Cần phối hợp các thao tác nghị luận trong bài viết. Cố gắng nêu lên những nhận xét, đánh giá riêng của bản thân.
3. Kĩ năng cần rèn luyện
- Kĩ năng tìm hiểu đề, lập dàn ý cho bài văn nghị luận.
- Huy động các kiến thức trong sách vở và những cảm xúc, trải nghiệm của bản thân để viết bài văn.
4. Phân tích nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật Tràng trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
- Giới thiệu truyện và nhân vật Tràng.
- Phân tích nhân vật Tràng:
+ Tràng là dân ngụ cư nghèo khổ, hiền lành, tốt bụng; sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ trong nạn đói khủng khiếp. 
+ Trong hoàn cảnh khốn cùng, Tràng vẫn khát khao hạnh phúc, có ý thức tạo dựng mái ấm gia đình.
+ Tràng là người có khát vọng sống mãnh liệt; có niềm tin vào tương lai tươi sáng.
Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật Tràng:
+ Nhân vật được đặt trong tình huống truyện độc đáo.
+ Diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế.
+ Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật.
Đánh giá chung về nhân vật Tràng và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Kim Lân.

NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG, ĐẠO LÍ

Nội dung, yêu cầu
- Bàn về một tư tưởng, đạo lí nhằm giới thiệu, giải thích, phân tích, biểu dương những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch xung quanh vấn đề bàn luận; trên cơ sở đó, rút ra bài học nhận thức và hành động cần thiết về tư tưởng, đạo lí.
- Người viết cần thể hiện quan điểm đúng đắn, đồng thời bộc lộ rõ tình cảm, thái độ của bản thân.
2. Cách thức triển khai bài văn
- Giới thiệu, giải thích tư tưởng, đạo lí cần bàn luận.
- Phân tích, biểu dương các mặt đúng, phê phán, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề bàn luận.
- Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động về tư tưởng, đạo lí.
Trong khi viết, cần phối hợp các thao tác lập luận: phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận, … Cần diễn đạt ngắn gọn, trong sáng, nhất là cần nêu bật được suy nghĩ riêng của bản thân.
3.Kĩ năng cần rèn luyện
- Xác định đúng nội dung tư tưởng, đạo lí đặt ra trong đề bài, hình thành cách thức nghị luận: giải thích, phân tích, bình luận. Biểu dương hay bác bỏ đều phải có lí lẽ xác đáng (đúng và phải lẽ), có cơ sở khoa học, tránh suy diễn, áp đặt (dùng sức ép, bắt phải chấp nhận).
- Huy động kiến thức và những trải nghiệm của bản thân để tạo lập văn bản. Trình bày những trải nghiệm (từng biết, từng sống qua và có kết quả) của bản thân cần chân thành, thiết thực, hợp lí, chặt chẽ và có sức thuyết phục.
4. Lòng tự trọng của mỗi người trong cuộc sống.
- Giới thiệu về lòng tự trọng.
- Giải thích thế nào là tự trọng. Tự trọng khác với tự kiêu, tự mãn, tự ti và tự ái (thương mình, quá nghĩ về mình rồi sanh hờn mát mỗi khi bị động chạm đến) như thế nào?
- Vai trò của lòng tự trọng trong cuộc sống của mỗi người. Dẫn chứng về lòng tự trọng.
- Suy nghĩ về người có lòng tự trọng. Suy rộng ra lòng tự trọng của tổ chức, của cộng đồng, của quốc gia.
- Nhấn mạnh lòng tự trọng trong cuộc sống của mỗi cá nhân.
5. Anh (chị) viết một bài văn ngắn (khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ của mình về mối quan hệ giữa tài và đức.
MB: Tài và đức có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bác Hồ đã từng nhấn mạnh: Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. 
TB:
- Tài là nói tới trình độ, năng lực và khả năng sáng tạo của con người. Đức là nói tới phẩm chất và nhân cách của con người. Tài và đức là hai mặt quan trọng trong việc hoàn thiện nhân cách của con người. 
- Nếu chỉ chú trọng đến tài mà không quan tâm đến đức sẽ dẫn đến sự lệch lạc trong suy nghĩ và hành động, thiếu sự phấn đấu, tu dưỡng và rèn luyện bản thân; thậm chí quá coi trọng tài mà không chú ý đến đức sẽ dẫn đến những suy nghĩ và hành động gây tác hại cho bản thân, cộng đồng và xã hội. 
- Nếu chỉ lo phấn đấu, tu dưỡng đức mà không quan tâm đến việc nâng cao trình độ, năng lực và khả năng sáng tạo của bản thân thì cũng không thể có nhiều đóng góp tốt cho cộng đồng và xã hội. 
- Giải quyết tốt mối quan hệ hài hòa, gắn bó giữa tài và đức sẽ giúp con người phát triển toàn diện và có nhiều đóng góp hữu ích cho xã hội. 
 KB: Phải biết trao dồi, rèn luyện bản thân cả về trình độ, năng lực và phẩm chất.
6. Suy nghĩ của anh (chị) về câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em. (Hồ Chí Minh, Thư gửi các học sinh)
Thanh niên học sinh là lực lượng quan trọng để xây dựng đất nước; thực hiện tốt nhiệm vụ học tập chính là đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước. Các thế hệ thanh niên học sinh trước đây đã có nhiều tấm gương. Thế hệ thanh niên ngày nay cần xứng đáng với vai trò lớn lao. Học sinh cần học tập tốt để làm rạng rỡ đất nước.
- Bác đánh giá cao ý nghĩa thành quả học tập của người học sinh. Đó là giúp cho nước nhà lớn mạnh có thể theo kịp thế giới.
- Qua đó Bác giao nhiệm vụ to lớn, vinh quang cho người học sinh: phải chăm chỉ, cố gắng phấn đấu rèn luyện để đạt thành tích cao trong học tập, góp phần xây dựng non sông, đất nước, làm vẻ vang cho dân tộc.
- Cách nói của Người thể hiện thái độ khích lệ, động viên và niềm tin, niềm hi vọng vào lớp trẻ.
- Từ câu nói của Bác, có thể hiểu rộng ra về vai trò của giáo dục, ý nghĩa to lớn của sự nghiệp trồng người.
- Từ đó rút ra bài học cho bản thân: phải không ngừng học tập sáng tạo, đó chính là cách cống hiến thiết thực cho đất nước.
Bổn phận là học sinh, là những tinh hoa tương lai của đất nước; chúng ta phải có trách nhiệm với bản thân, trách nhiệm với gia đình, những người xung quanh và có trách nhiệm trong quá trình học tập. Trở nên có trách nhiệm với bản thân nghĩa là tập trung vào những mong muốn, nhu cầu của mình đồng thời tìm ra hướng giải quyết cho các vấn đề của bản thân. Điều cấm kị nhất đối với mỗi cá nhân là đứng cách ly, tự tách biệt mình với xã hội. Phải để bản thân tham gia các hoạt động tập thể, trải nghiệm những cái tốt đẹp và mới mẻ để tự rút ra kinh nghiệm sống cho bản thân. Trong học tập, chúng ta cần phải chú tâm và biết tìm tòi, khám phá. Kiến thức không chỉ gói gọn trong những trang sách mà còn trải dài ra thế giới bao la, nhiệm vụ của mỗi học sinh là sử dụng sách vở để dẫn dắt ta ra thế giới kiến thức đó, tìm kiếm và thu thập những tài liệu quý báu cho bản thân, trau dồi kinh nghiệm thực tế để giúp đỡ ta trong quá trình học tập. Mặc khác, cách học và đạo đức trong việc học cũng có ý nghĩa không kém. Không phải học nhồi nhét là tốt, mà học phải đi đôi với hành, vận dụng những kiến thức được học vào đời sống để làm cuộc sống ý nghĩa hơn mới gọi là học. Và tránh ngay kiểu học vẹt, học qua loa cho xong, vì đó chính là những cách học giết chết tri thức bạn. Bên cạnh đó, ta phải biết tự điều chỉnh hành vi trong việc học, giữ cho tâm tính ngay thẳng thật thà là một điều tốt. Gỉa dụ như trong một bài kiểm tra nào đó, ta có hành vi gian lận thì đó chính là vô trách nhiệm với bản thân. Đây không phải là trịnh trọng hóa vấn đề, nhưng thử nghĩ xem, ta làm một lần thì khả dĩ sẽ có lần thứ hai, thứ ba, tương lai chúng ta sẽ ra sao nếu như cứ mãi quen thói lừa dối và ỷ lại ? Vận mệnh đất nước sẽ thế nào nếu rơi vào tay một kẻ như thế ? Xã hội đang dần phát triển từng ngày, và học sinh chúng ta là người trực tiếp giúp nhân loại phát triển. Chúng ta phải có trách nhiệm với nơi chúng ta tồn tại. Chỉ cần những hành động nhỏ của bạn như không xả rác, không hút thuốc, uống rượu, giữ gìn vệ sinh chung…cũng là đóng góp cho xã hội. Hiện nay, mỗi đợt hè về chúng ta lại bắt gặp màu áo xanh của thanh niên tình nguyện, những con người đó gánh vác trên vai trách nhiệm của bản thân, đi về vùng sâu vùng xa giúp đỡ người già neo đơn, sửa lại cây cầu, lợp lại mái lá…tất cả những nghĩa cử đó đều thể hiện rõ rệt những cống hiến của họ với xã hội, mong muốn một đất nước tốt đẹp hơn. Sống có trách nhiệm còn được thể hiện qua những hành động rất nhỏ nhặt trong đời sống, những thói quen hằng ngày mà chúng ta dường như quên đi vì nó quá quen thuộc. Gỉa dụ như việc đúng giờ, đúng hẹn cũng là sống có trách nhiệm. Đó là trách nhiệm với công việc của bản thân, trách nhiệm với uy tín và có trách nhiệm với đối phương. Chỉ cần cúi xuống nhặt một cọng rác vứt bừa bãi là ta đã chung tay góp phần tạo nên một “ta” trách nhiệm với môi trường, với những người xung quanh rồi. Càng nổi tiếng người ta càng phải sống có trách nhiệm, vì từng hành động, từng lời nói của họ đều được cả nhân loại theo dõi và đánh giá nên họ phải tận dụng điều đó mà gửi những thông điệp tốt đẹp đến xã hội. Sống thoáng là sống thiếu trách nhiệm ! Tình trạng nhiều bạn nữ phải vào bệnh viện nạo phá thai khi còn rất trẻ như hiện nay thì đó là một hiện thực quá đau lòng. Hầu hết đều để lại hậu quả lớn rồi mới ân hận thì chuyện đã rồi. Một bộ phận giới trẻ không ý thức được lối sống lành mạnh quan trọng như thế nào. Điều đó chứng tỏ họ thiếu hiểu biết, thiếu trách nhiệm với chính tương lai của mình. “Live each day as it come!” (Sống trọn vẹn mỗi ngày khi nó đến) là một trong những câu châm ngôn hay và rất đúng đắn với mỗi chúng ta. Sống có trách nhiệm còn là sống trọn vẹn mỗi ngày, không lãng phí từng phút từng giây. Tức là ta phải sống sao cho ý nghĩa với mọi việc, mọi người mà ta có trách nhiệm. Phải hoàn thành tốt công việc được giao hoặc tự mình đặt ra kế hoạch cho bản thân. Sắp xếp thời gian biểu để dành cho bản thân những giây phút khuây khỏa mà trong điều kiện, ta có khả năng và xứng đáng được tận hưởng. Ta sẽ phải dành thời gian cho người thân, bạn bè và những người quanh mình theo cách này hay cách khác. Tất nhiên sẽ không dễ dàng gì để làm được tất cả mọi việc một cách trọn vẹn, nhưng làm tốt được một trong những việc ta phải làm mỗi ngày sẽ mang lại cho ta một niềm phấn khởi mới, vui vẻ và tận hưởng cuộc sống một cách nhiệt thành hơn.
7. Như một thứ a-xit vô hình, thói vô trách nhiệm ở mỗi cá nhân có thể ăn mòn cả một xã hội. Từ ý kiến trên, anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về tinh thần trách nhiệm và thói vô trách nhiệm của con người trong cuộc sống hiện nay.
MB: Thói vô trách nhiệm của mỗi con người trong cuộc sống rất nguy hiểm cho bản thân và cả xã hội. Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng: Như một thứ a-xit vô hình, thói vô trách nhiệm ở mỗi cá nhân có thể ăn mòn cả một xã hội.
TB: 
- Giải thích: Ý kiến này đề cập đến mối nguy hại ngấm ngầm rất cần cảnh giác của thói vô trách nhiệm; nó xuất phát từ mỗi cá nhân nhưng lại gây hậu quả to lớn đối với toàn xã hội. Về thực chất, ý kiến này là sự cảnh báo về một vấn nạn đạo đức mang tính thời sự: thói vô trách nhiệm và hậu quả khôn lường của nó.
- Bàn luận: 
+ Tinh thần trách nhiệm: là ý thức và nỗ lực nhằm hoàn thành tốt những phận sự của mình. Nó được biểu hiện cụ thể, sống động trong ba mối quan hệ cơ bản: giữa cá nhân với gia đình, cá nhân với toàn xã hội và cá nhân với bản thân mình. Tinh thần trách nhiệm là một phẩm chất cao đẹp, một thước đo giá trị con người; là cơ sở để xây dựng hạnh phúc của mỗi gia đình; đồng thời tinh thần trách nhiệm cũng góp phần quan trọng tạo nên quan hệ xã hội tốt đẹp, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
+ Thói vô trách nhiệm: là một biểu hiện của lối sống phi đạo đức, thể hiện ở ý thức và hành động không làm tròn phận sự của mình đối với xã hội, gia đình và bản thân, gây nên những hậu quả tiêu cực. Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau, lối sống ấy đang khá phổ biến, trở thành một vấn nạn trong xã hội. Tác hại của thói vô trách nhiệm: làm băng hoại đạo đức con người; gây tổn hại hạnh phúc gia đình; gây tổn thất cho cộng đồng, kìm hãm sự phát triển và tiến bộ của xã hội.
KB: Bản thân cần nhận thức sâu sắc tinh thần trách nhiệm là thước đo phẩm giá con người; không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm của mình trong mọi lĩnh vực đời sống. Cần ý thức rõ tác hại và có thái độ kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện của thói vô trách nhiệm trong xã hội.

NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG

Yêu cầu
Người viết cần thể hiện được sự hiểu biết về hiện tượng đời sống đang bàn luận, đồng thời bộc lộ tình cảm, thái độ của bản thân.
Cách thức triển khai bài văn
- Nêu rõ hiện tượng cần bàn; phân tích các mặt đúng – sai, lợi – hại; chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết về hiện tượng đó.
- Cần phối hợp các thao tác lập luận trong bài viết: phân tích, so sánh, bình luận, … Cần diễn đạt ngắn gọn, trong sáng, không mắc lỗi về chính tả, dùng từ và ngữ pháp, nhất là cần nêu bật được cảm nghĩ của riêng mình.
3. Kĩ năng cần rèn luyện
- Nhận diện được hiện tượng đời sống đang bàn luận, xác định cách thức lập luận. Tích cực cần biểu dương, ca ngợi; còn tiêu cực thì cần phê phán, lên án, … Phê phán hay ca ngợi đều phải có lí lẽ xác đáng, có cơ sở khoa học, có cái nhìn nhân ái, bao dung, tránh suy diễn, áp đặt.
- Huy động kiến thức và những trải nghiệm của bản thân để bài văn được sinh động, chân thực. Trình bày những trải nghiệm (từng biết, từng sống qua và có kết quả) của bản thân cần chân thành, thiết thực, hợp lí, chặt chẽ và có sức thuyết phục.
4.Trình bày suy nghĩ của anh/chị về vấn đề rác thải và môi trường.
- Vấn đề rác thải có liên quan chặt chẽ đến việc bảo vệ môi trường.
- Con người trong sinh hoạt và sản xuất luôn luôn tạo ra rác. Rác thải vào môi trường sẽ làm môi trường suy thoái, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.
- Vấn đề đặt ra là phải thu gom, xử lí rác thải hiệu quả.
- Rác thải sinh hoạt: chai, lọ thủy tinh; vỏ đồ hộp có thể tái chế.
- Rác công nghiệp cần được xử lí theo quy trình khoa học.
- Cần tuyên truyền giáo dục ý thức trách nhiệm của mỗi người, mỗi tổ chức, xí nghiệp vầ vấn đề rác thải.
- Thu gom rác thải, xử lí hiệu quả là bảo vệ sự trong sạch, lành mạnh môi trường sống cùa chúng ta.
5. Đọc truyện sau: 
BA CÂU HỎI
	Ngày nọ, có một người đến gặp nhà triết học Xô-cơ-rát (Hi Lạp) và nói: “Ông có muốn biết những gì tôi mới nghe được về người bạn của ông không?”.
- Chờ một chút. - Xô-cơ-rát trả lời – Trước khi kể về người bạn tôi, anh nên suy nghĩ một chút và vì thế tôi muốn hỏi anh ba điều. Thứ nhất: Anh có hoàn toàn chắc chắn rằng những điều anh sắp kể là đúng sự thật không?
- Ồ không. – Người kia nói – Thật ra tôi chỉ nghe nói về điều đó thôi và …
- Được rồi. - Xô-cơ-rát nói – Bây giờ điều thứ hai: Có phải anh sắp nói những điều tốt đẹp về bạn tôi không?
- Không, mà ngược lại là …
- Thế à? - Xô-cơ-rát tiếp tục – Câu hỏi cuối cùng: Tất cả những điều anh sắp nói về bạn tôi sẽ thật sự cần thiết cho tôi chứ?
- Không, cũng không hoàn toàn như vậy.
- Vậy đấy. - Xô-cơ-rát quay sang người khách và nói: “…”.
(TheoPhép màu nhiệm của đời, 
 NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2004)
	Theo anh (chị), Xô-cơ-rát sẽ nói với người khách như thế nào? Hãy bình luận về bài học rút ra từ câu chuyện trên.
(Đề thuộc dạng đề nghị luận về một hiện tượng trong cuộc sống. Câu chuyện ở đề này nhằm phê phán hiện tượng có những người chuyên đi nói xấu người khác; ca ngợi sự thông minh, hóm hỉnh, đạo đcứ trong sáng, cao thượng của nhà hiền triết Xô-cơ-rát. Qua đó, người đọc có thể rút ra cho mình bài học về tình bạn, về đạo lí và lối sống đúng đắn.
Trong nguyên bản, câu nói của Xô-cơ-rát với người khách cuối truyện là: Vậy đấy, nếu những gì anh muốn kể không có thật, cũng không tốt đẹp, thậm chí cũng chẳng cần thiết cho tôi thì tại sao anh lại phải kể?. Câu trả lời chỉ là câu hỏi phụ, trọng tâm bài làm là phát biểu những suy nghĩ về ý nghĩa của câu chuyện. Cần biết phê phán hiện tượng không lành mạnh trong cuộc sống, rút ra bài học trong cách ứng xử hằng ngày, trong quan hệ bạn bè và với những người xung quanh. Ngày nay, trong cuộc sống còn rất nhiều thói hư tật xấu khác. Vì vậy, chúng ta cần biết phê phán những hiện tượng không lành mạnh và trong cách ứng xử hàng ngày, trong quan hệ bạn bè và quan hệ với những người xung quanh luôn cần có những thiện ý.)
“Mỗi lời nói của chúng ta đều ẩn chứa một sức mạnh vô hình. Một lời động viên khích lệ có thể trở thành động lực giúp cho những người đang trong cơn bế tắc lấy lại tinh thần và vượt qua khó khăn. Nhưng có những lời nói có thể giết chết một người trong tình thế tuyệt vọng. Do đó, hãy cẩn thận với những gì mình nói. Đừng hủy diệt tinh thần của một người đang trong hoàn cảnh khốn khó bởi những lời nói tiêu cực của mình. Thay vào đó hãy giành thời gian động viên và khích lệ họ. Cuộc sống của chúng ta và mọi người xung quanh trở nên như thế nào tùy thuộc vào chính thái độ và lời nói của chúng ta.”
Đế chế Hi Lạp cổ đại có một nền văn hóa rực rỡ với những nhà khoa học lỗi lạc của mọi thời đại. Xô-cơ-rát là một trong những nhà hiền triết vĩ đại, những câu chuyện kể về ông thường mang đến những bài học thú vị, một trong số đó là câu chuyện Ba câu hỏi.(Trích dẫn câu chuyện) Liệu nhà hiền triết sẽ nói gì? Chúng ta hiểu gì sau thái độ và ý kiến của ông?
Có câu nói rằng: Trên đời có ba thứ một đi không trở lại, đó là tên đã bắn, ngày đã qua và lời đã nói. Vì khi câu chuyện được nói ra, nếu không tốt đẹp sẽ bôi nhọ danh dự của người khác, dù sau đó có được cải chính cũng khó có thể khôi phục, đền bù như cũ được.
Có những câu chuyện bổ ích và cần thiết, dù có bỏ ra nhiều thời gian để tiếp thu cũng không uổng phí song cũng có đầy rẫy những câu chuyện vô bổ, chỉ tốn thời gian để nghe mà thậm chí còn có hại cho người khác. Với ba câu trả lời của người khách, rằng câu chuyện chẳng có thực, chẳng tốt đẹp gì và chẳng có lợi ích gì cho Xô- cờ-rát, ông chắc chắn sẽ từ chối nghe câu chuyện vô bổ ấy và nêu lên cho người khách kia một bài học khi kể lại bất cứ một điều gì về người khác. Có thể ông đã nói: Vậy đấy, câu chuyện anh muốn kể không có thật, cũng không tốt đẹp, thậm chí cũng chẳng cần thiết cho tôi và cũng chẳng có lí do gì để tôi phải lắng nghe câu chuyện đó cả. Hoặc Anh thấy đấy, tại sao tôi phải nghe một câu chuyện mà tôi chẳng biết nó có thực hay không, thậm chí nó lại chẳng tốt đẹp gì và chẳng cần thiết cho tôi nữa …
Câu chuyện giúp ta hiểu: trước khi nói/kể lại một điều gì cần suy nghĩ kĩ về vấn đề đó. Phải chắc chắn về sự đúng đắn, tốt đẹp, có ích của sự việc mới nên kể lại nếu không sẽ phí thời giờ thậm chí có hại cho bản thân và người khác.
6. Có quan niệm cho rằng: Thanh niên, học sinh thời nay phải biết nhuộm tóc, hút thuốc lá, uống rượu, vào các vũ trường … thế mới là cách sống “sành điệu” của tuổi trẻ thời hội nhập. 
Anh (chị) có suy nghĩ gì về quan niệm trên?
MB: Có quan niệm cho rằng: Thanh niên, học sinh thời nay phải biết nhuộm tóc, hút thuốc lá, uống rượu, vào các vũ trường … thế mới là cách sống “sành điệu” của tuổi trẻ thời hội nhập. Đó là quan niệm sai lầm.
TB: 
 Cách sống “sành điệu” ấy là biểu hiện của lối sống đua đòi, vô bổ: thanh niên là những người còn trẻ, đang ở tuổi trưởng thành, tuổi của học tập, rèn luyện để thực hiện lí tưởng, ước mơ của mình. “Sành điệu” không phải là cứ “nhuộm tóc, hút thuốc lá, uống rượu, vào các vũ trường”… Đó là sự bắt chước, chạy theo người khác. Cái quan trọng nhất của mỗi thanh niên , hoạc sinh là cống hiến cho xã hội. Thời kì hội nhập hiện nay mỗi người, nhất là thanh niên, học sinh cần bắt kịp với xu hướng mới nhưng phải lành mạnh và có sự chọn lọc.
 Cách sống “sành điệu” ấy sẽ đưa đến những tác hại không nhỏ, ảnh hưởng xấu đến học tập, công tác: Tốn nhiều tiền bạc và thời gian. Ảnh hưởng đến sức khỏe, thậm chí để lại những di họa sau này. Dễ dàng đẩy con người đến sự tha hóa về nhân cách, dẫn đến các tệ nạn xã hội (Học sinh dùng thuốc lắc sẽ bị công an bắt; vào vũ trường hút thuốc, uống rượu sẽ bị xã hội phê phán, chứ không ai khen là “sành điệu”). Nguy hại hơn cách sống ấy có thể làm mất bản sắc dân tộc.
 Nguyên nhân dẫn đến quan niệm sai lầm trên: Không nhận thức được “sành điệu thời hội nhập” là sự am hiểu, phong phú về tri thức chứ không phải là sự đua đòi vô bổ, chạy theo hình thức bên ngoài. Không phân biệt được nhu cầu giải trí, thư giãn (nếu có điều kiện) với sự bắt buộc tất yếu.
 Thanh niên, học sinh nên có lối sống: nói không với những tệ nạn xã hội: tránh xa những lối sống “sành điệu” như đã phân tích. 
KB: Thời hội nhập, thanh niên tiếp thu cái mới là đúng nhưng cái mới phải đi liền với cái tốt đẹp và tiến bộ, hay nói cách khác là tiếp thu những yếu tố lành mạnh có lựa chọn. Sống có mục đích đúng đắn, lí tưởng tốt đẹp và học tập, hành động để thực hiện mục đích, lí tưởng ấy. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của bác Hồ: cần - kiện – liêm – chính, chí công - vô tư.

TRẢ BÀI KIỂM TRA VIẾT

1. Nhận xét chung về hình thức trình bày
Chữ viết, dấu câu, đoạn văn, bố cục ba phần của bài văn, …Bài văn không chỉ đúng, hay mà còn phải đẹp.
2. Những điều cần biết và rèn luyện về hình thức trình bày bài văn
- Chữ viết: Đúng kí tự/ chính tả, rõ ràng, cẩn thận và đẹp (nét rõ ràng, dấu thanh, dấu mũ chính xác). Không tẩy xóa bừa bãi, không làm trang giấy nhòe, nhàu nát. Cân nhắc lúc viết các khoảng cách con chữ cho hợp lí.
- Câu, đoạn văn: Các hàng chữ phải thẳng, đều theo lề. Dùng dấu câu đúng, rõ ràng. Đầu mỗi đoạn phải lùi vào khoảng 1cm tính theo lề; kết thúc đoạn là dấu chấm câu, xuống dòng. Nên viết câu ngắn, đoạn văn vừa phải.
- Dẫn chứng và trình bày dẫn chứng: Nên đặt trong ngoặc kép từ ngữ, đoạn câu văn/ khổ thơ; tên tác phẩm.
Trình bày một đoạn văn/ thơ, câu thơ dài ngắn, … đều phải trình bày cân xứng trên trang giấy, không xéo lệch, lộn xộn. Chú thích nên đặt tên tác phẩm trước, tác giả sau trừ trường hợp tên tác phẩm quá dài; chú thích tác giả không cần dùng ngoặc đơn, chú thích tên tác phẩm nên đặt trong ngoặc đơn, chú thích tác phẩm và tác giả nên ngăn cách bằng gạch ngang ngắn, đặt trong dấu ngoặc đơn.
3. Nhận xét chung về kiến thức: (Xem đáp án)
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH

1. Mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập”, Hồ Chí Minh đã trích dẫn những bản tuyên ngôn nào (nêu tên bản tuyên ngôn, tên nước, năm ra đời)? Cho biết mục đích của việc trích dẫn đó?
Mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập”, Hồ Chí Minh đã trích dẫn:
+ Bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của nước

File đính kèm:

  • docON TN THPT NGU VAN 2014.doc