Chuyên đề Hình ảnh người vợ nhặt trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân

doc16 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1010 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Hình ảnh người vợ nhặt trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIẾP TỤC ĐỊNH HƯỚNG MỘT SỐ DÀN Ý CHO ĐỀ LÀM VĂN 5 ĐIỂM PHẦN NGHỊ LUẬN NHÂN VẬT
III/  MỘT SỐ DÀN BÀI LUYỆN TẬP
NGHỊ LUẬN VỀ NHÂN VẬT
----------------------------------
@/ Đề 1 : Hình ảnh  người vợ nhặt
trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. 
I. Mở bài :
              Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Đây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu ( 1945) của nước ta.
           Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình ảnh của nhân vật người vợ nhặt : nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt .Điều đó được thể hiện qua việc chị chấp nhận theo không một người đàn ông về làm vợ giữa ngày đói.
II. Thân bài :  
         1/ Trước hết, về cảnh ngộ, xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh : không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp…
      Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị”- một cách gọi phiếm định giành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ vàsố phận đáng thương và tội nghiệp như chị.
     Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn : đó là hình ảnh của người đàn bàgầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa.
       2/ Về tính cách :
            a.Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh
       Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng.
       Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon… 
à Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói.Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người.Nói điều này, chắc chắn nhà văn thật sự xót xa và cảm thông cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động.
        b. Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang .
         Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng ( thị đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn” , ngượng nghịu,“chân nọ bước díu cả vào chân kia”…)à thật tội nghiệp cho cảnh cô dâu mới theo chồng về nhà : một cảnh đưa dâu không xe hoa, chẳng pháo cưới mà chỉ thấy những khuôn mặt hốc hác u tối của những người trong xóm và âm thanh của tiếng quạ, tiếng khóc hờ người chết tang thương…
         Sau một ngày làm vợ, chị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình – hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo. 
         Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.
III. Kết bài :
          Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng.
           Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình.Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ  bên bờ của cái chết….
 
 
 
 
9
 
@/Đề 2. Phân tích nhân vật Tràng
trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
1. Mở bài : 
      Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. ây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu ( 1945) của nước ta.
     Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình ảnh của nhân vật Tràng: nghèo đói,bất hạnh nhưng giàu tình người và khát vọng hạnh phúc.Điều đó được thể hiện qua chính câu chuyện nhặt vợ của anh giữa ngày đói.
2. Thân bài :
        a.Thật vậy, xuất hiện trong tác phẩm, Tràng vốn là một gã trai nghèo, sống ở xóm ngụ cư, có mốt mẹ già và làm nghề đẩy xe bò mướn. Đã vậy, Tràng lại có một ngoại hình xấu xí, thô kệch với “ cái đầu trọc nhẵn”; “cái lưng to rộng như lưng gấu”; “ hai con mắt gà gà, nhỏ tí”lúc nào cũng đắm vào bóng chiều của hoàng hôn.Thêm vào đó, tính tình của Tràng lại có phần “dở hơi” nhưng tốt bụng, hay vui đùa với trẻ con trong xóm. Có thể nói, Tràng có một cảnh ngộ thật bất hạnh và tội nghiệp. 
       b. Vậy mà, con người có thân phận thấp hèn ấy bỗng nhiên lại trở thành một chú rể có thể coi là hạnh phúc : Tràng bỗng dưng có vợ.
          -   Tràng có vợ bằng cách “nhặt” được chỉ qua hai lần gặp gỡ, vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc giữa ngày đói .Qủa thật, chuyện lấy vợ của Tràng là một lạ mà thú vị - đùa mà thật , thật mà cứ như đùa. 
          b1.Lúc đầu, khi người phụ nữ đói nghèo, rách rưới đồng ý theo không Tràng về làm vợ, Tràng không phải không biết “chợn”: “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không , lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi anh ta chặc lưỡi “Chậc,kệ!”.Có vẻ như một quyết định không nghiêm túc như phóng lao phải theo lao vậy.
     à Việc hai người đến với nhau bề ngoài có vẻ ngẫu nhiên nhưng bên trong lại là tất nhiên : Người đàn bà cần Tràng để có một chỗ dựa qua thì đói kém, còn Tràng cũng cần người phụ nữ nghèo ấy để có vợ và để biết đến hạnh phúc.
         b2  .Trên đường đưa vợ về nhà, Tràng thật sự vui và hạnh phúc : “ Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả đói khát đang đe doạ….Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy…”. Có thể nói , trong tác phẩm, có tới hơn hai mươi lần nhà văn nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực của Tràng khi đã có vợ bằng các từ ngữ rất gợi tả và gợi cảm : mặt phớn phở, mắt sáng lên lấp lánh, miệng cười tủm tỉm…
       b3. Chỉ sau một đêm “nên vợ nên chồng”. Tràng thấy mình đổi khác “ trong người êm ái , lửng lơ như người từ giấc mơ đi ra.”.Tràng “ bỗng nhiên thấy thương yêu và gắn bó với căn nhà”; …Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này…”
   à  Niềm vui của Tràng thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn ước mơ . “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”.So với cái dáng “ngật ngưỡng” của Tràng ở đầu tác phẩm, hành động “xăm xăm” này của Tràng là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng :từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức.Tràng đã thật sự “phục sinh tâm hồn”- đó chính là giá trị lớn lao của hạnh phúc.
      -- Ở cuối tác phẩm, trong suy nghĩ của Tràng “ cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp.Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”.Đoàn người đi phá kho thóc của Nhật và lá cờ Việt Minh.Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ về một tương lai hướng về Đảng về cách mạng của Tràng và những người như Tràng.  => Qua nhân vật Tràng, Kim Lân đã bộc lộ được khả năng miêu tả tâm lý nhân vật và ngòi bút nhân đạo sâu sắc của nhà văn
3. Kết bài:  
 -    Tóm lại, Kim Lân miêu tả tâm trạng nhân vật Tràng xoay quanh tình huống nhặt vợ hết sức đặc biệt.Cũng từ đó, hình tượng nhân vật Tràng có vai trò lớn trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm :Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà luôn nghĩ đến sự sống.
   - Cũng qua Tràng và câu chuyện nhặt vợ của anh, nhà văn  giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhựng người dân lao động nghèo : đó là vẻ đẹp tình người và niềm tin tưởng vào tương lai. 
 
 
 
 
 
10
 
 
 
@/Đề3:Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ
trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
I.Mở bài :  
     -    Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. ây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu ( 1945) của nước ta.
    - Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã viết rất hay về tâm trạng của bà cụ Tứ - một người mẹ già, nghèo khổ nhưng giàu tình thương con và giàu lòng nhân hậu.
 II. Thân bài :
       1.Khái quát về cuộc đời của bà cụ :Trước hết, xuất hiện trong tác phẩm, bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ  có một cuộc đời thật nhiều thương cảm : nhà nghèo, goá bụa, sống gian khổ, thầm lặng.
      2.Bối cảnh – tình huống và diễn biến tâm trạng của bà cụ:  Bà cụ Tứ lần đầu tiên xuất hiện trong thiên truyện là lúc bóng hoàng hôn tê tái phủ xuống xóm Ngụ cư giữa ngày đói. Cùng lúc đó, người con trai đáng thương của bà làm nghề đẩy kéo xe trên huyện, đưa một người đàn bà lạ về nhà. 
       a. Khởi đầu , bà ngỡ ngàng  trước việc có một người phụ nữ lạ xuất hiện trong nhà mình. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ được nhà văn diễn tả bằng hàng loạt những câu nghi vấn : “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình thế kia? Sao lại chào mình mình bằng u?...”
   à Thái độ ngạc nhiên của người mẹ, phải chăng cũng là nỗi đau của nhà văn trước một sự thật : chính sự cùng quẫn của hoàn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm vốn có trước hạnh phúc của con  
     b. Sau khi hiểu ra là con trai đã có vợ, bà lão không nói gì mà chỉ “cúi đầu im lặng”- một sự im lặng chứa đầy nội tâm : đó là niềm xót xa, buồn vui, lo lắng, thương yêu lẫn lộn . Bà mẹ đã tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh.  
         - Bằng lòng nhân hậu thật bao dung của người mẹ, bà nghĩ :“Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này không?”.Trong chữ “chúng nó” , người mẹ đã đi từ lòng thương con trai để ngầm chấp nhận người đàn bà lạ làm con dâu của mình.
        - Rồi tình thương  lại chìm vào nỗi lo , tạo thành một trạng thái tâm lý triền miên day dứt : bà nghĩ đến bổn phận chưa tròn , nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ của đời mình, nghĩ đến tương lai của con …để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng – yêu thương trong một câu nói giản dị : “ Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”.
   c. Đặc biệt là sau một ngày con trai có vợ, người mẹ giàu lòng thương con ấy thật sự vui và hạnh phúc trước hạnh phúc của con :
     -Bà cùng con dâu dọn dẹp, thu vén căn nhà ; trong bữa cơm ngày đói, bà toàn nói chuyện vui để xua đi thực tại hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho con :“ Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà ”.
     - Thật cảm động, khi Kim Lân để cái ánh sáng kỳ diệu của tình mẫu tử toả ra từ nồi cháo cám : “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”.Chữ ‘ngon” này không phải là xúc cảm về vật chất  ( xúc cảm về vị cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần : ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát của cháo cám thành ngọt ngào .
     => Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chứng minh cho cáichất NGƯỜI của người dân lao động : trong bất kỳ hoàn cảnh nào , tình nghĩa và hy vọng của con người vẫn không thể bị tiêu diệt – con người vẫn muốn sống cho ra sống.Chính chất NGƯỜI đã thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hy vọng.  Tuy nhiên niềm vui của bà cụ Tứ  trong hoàn cảnh ấy vẫn là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với nồi cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”.
 III/ Kết bài :
       - Có thể nói, nhân vật bà cụ Tứ là một nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp tình người và lòng nhân ái mà Kim Lân đã gửi gắm trong tác phẩm “ Vợ nhặt”.Thành công của nhà văn là đã thầu hiểu và phân tích được những trạng thái tâm lý khá tinh tế của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt .Vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ.   
 =>“Vợ nhặt” là ca về tình người của những người nghèo khổ, đã biết sống cho ra người ngay giữa thời túng đói quay quắt .
 
11
 
 
@/ Đề 4:   Phân tích nhân vật Tnú
trong truyện ngắn “ Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành”.
---------------
I/ Mở bài: 
      - TNú là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành .Tác phẩm được sáng tác năm 1965, trong hòan cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ ở vào giai đọan quyết liệt.
      - Xuất hiện trong tác phẩm, TNú là hình ảnh tiêu biểu cho số phận đau thương và phẩm chất kiên cường , bất khuất của nhân dân làng Xô Man ở Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
II/ Thân bài:
          *Thật vậy,Tnú là người Strá, mồ côi cha mẹ từ rất sớm, được dân làng Xô Man cưu mang- đùm bọc.Có lẽ vì thế,hơn ai hết Tnú gắn bó với buôn làng và mang những phẩm chất tiêu biểu của dân làng XôMan : Yêu quê hương, trung thành với Cách mạng,gan góc, dũng cảm ,thông minh, gan dạ, giàu tự trọng...Đúng như lời cụ Mết đã nói về TNú “Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.
     1/Trước hết, TNú là một con người gan góc, táo bạo, dũng cảm, trung thành tuyệt đối với cách mạng:
- Ngay từ nhỏ,TNú đã cùng Mai làm liên lạc cho cán bộ ở trong rừng mà không sợ bị chặt đầu hoặc treo cổ.
- Khi đi liên lạc,giặc vây các ngả đường thì TNú đã “xé rừng mà đi”.Qua sông, TNú “không thích lội chỗ nước êm” mà “cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cỡi lên thác băng băng như một con cá kình”, “vì chỗ nước êm thằng Mĩ hay phục”
.- Bị giặc bắt thì nuốt luôn cái thư vào bụng, bị tra tấn không khai; một mình xông ra giữa vòng vây của kẻ thù trong tay không có vũ khí; bị giặc bắt, bị đốt mười đầu ngón tay vẫn không kêu than...
 - Học chữ thua Mai thì lấy đá đập vào đầu .Điều ấy thể hiện ý thức của lòng tự trọng và ý chí quyết tâm cao.
   à Có thể nói, sự gan góc,táo bạo,dũng cảm của TNú là cơ sở để làm nên hành động anh hùng và phẩm chất anh hùng của TNú.
   2/Tiếp theo,TNú còn là một người biết vươn lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân:
       - Mồ côi, được dân làng nuôi nấng, sau này trở thành người con ưu tú của dân làng.
       - Bản thân 2 lần bị giặc bắt, bị tra tấn dã man ( tấm lưng chằng chịt những vết chém, hai bàn tay bị đốt mỗi ngón chỉ còn lại hai đốt; vợ con bị giặc giết hại...) Tnú không khuất phục, kiên cường, bền gan gia nhập bộ đội để cầm súng bảo vệ dân làng, quê hương, đất nước. 
  3/  Không những vậy,TNú còn là một người giàu tình yêu thương người thân và quê hương bản làng:
     - Đó là, tình yêu thương vợ conrất mực tha thiết của TNú : Chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn dã man anh không kìm được nỗi đau đang đốt cháy lòng mình: “anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy (...) ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”.Phải chăng, tình yêu thương và sự căm thù đã kết thành ngọn lửa rực cháy trong hai con mắt của anh : dữ dội, bi thương.
    - Đó còn là, tình cảm gắn bó với bản làng,với quê hương đất nướccủa anh: Trên đường trở về thăm làng, Tnú nhớ từng gốc cây, nhớ tiếng chày giã gạo....cũng chính vì tình yêu quê hương mà Tnú đã tham gia là cách mạng, chịu nhiều đau thương....vì sự yên bình của quê hương, đất nước. à  Chính tình yêu thương người thân, yêu thương quê hương đất nước thiết tha và lòng căm thù sâu sắc, đã trở thành động lực, biến thành hành động cụ thể : dù hai bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt, anh vẫn gia nhập lực lượng quân giải phóng để cầm súng chiến đấu giải phóng quê hương.  
  4 TNú còn là người có  ý thức và tinh thần kỷ luật cao: Xa bản làng ba năm, tuy nhớ nhà, nhớ quê hương, nhưng phải được cấp trên cho phép anh mới về và chỉ về đúng một đêm như qui định trong giấy phép
  5/-  Đặc biệt hình ảnh bàn tay Tnú là chi tiết nghệ thuật giàu sức ám ảnh –Bàn tay ấy cũng có một cuộc đời: Đó từng là bàn tay trung thực và tình nghĩa, từng cẩm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho, từng cầm đá đập vào đầu khi quên chữ, từng đặt lên bụng mình mà nói “Cộng sản ở đây này”, từng được Mai cầm bàn tay ấy mà khóc khi Tnú thoát ngục trở về ....Khi giặc đốt 10 đầu ngón tay, bàn tay thành chứng tích của tôi ác và lòng hận thù. Hận thù đã khiến bàn tay Tnú thành bàn tay quả báo (mười ngọn đuốc từ ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của dân làng Xô Man; bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón vẫn cầm giáo, cầm súng lên đường trả hận....
III/. Kết bài:    Chân lý cách mạng là chân lý từ máu và nước mắt, nó đồng nghĩa với chân lý cuộc sống.  Tnú là bằng chứng sống cho qui luật nghiệt ngã ấy. Câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú - cuộc đời của một con người mang ý nghĩa cuộc đời của một dân tộc. Có thể nói nhân vật Tnú mang đậm tính sử thi – nhân vật ấy gánh nặng số phận lịch sử.  Dù có nhiều dị biệt, Tnú vẫn là kiểu nhân vật sánh vai với các anh hùng trong trường ca Đam San, Xinh Nhã của núi rừng Tây Nguyên.
 
 
12
 
 
 
 
@/  Đề 5:
Những vẻ đẹp khác nhau của các thế hệ người Tây Nguyên thời đánh Mỹ  
trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành
I/Mở bài:                         “Tây Nguyên ơi, cây rừng bao nhiêu lá…có hoa nào đẹp nhất rừng…” 
          - Ai đã từng lắng nghe tiếng hát ấy trong những tháng ngày sôi sục thời đánh Mỹ! Ai đã từng biết đến hoa Pơlang – lòai hoa tươi đẹp nhất của núi rừng Tây Nguyên có hàng ngàn cánh, nở tươi thơm mát đến hàng vạn năm đã được nói đến trong sử thi ĐămSăn! Tiếng hát ấy, loài hoa ấy còn đem đến cho ta bao xúc động,bồi hồi khi nghĩ tới những phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành- một kiệt tác được sáng tác vào năm 1965, viết về các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đau thương mà kiên cường, bất khuất thời đánh Mỹ.
 II/ Thân bài: 
        Thật vậy, đến với truyện ngắn “Rừng xà nu”, chúng ta gặp được ở đó hình ảnh của cả một buôn làng XôMan, từ già tới trẻ, từ đàn ông tới đàn bà …đều một lòng đi theo Cách mạng.Bất chấp sự uy hiếp tàn bạo của Mỹ-Diệm, dân làng XôMan vẫn thay nhau vào rừng tiếp tế,bảo vệ cán bộ Đảng.Suốt 5 năm, chưa hề có một cán bộ nào bị giặc bắt hay giết trong rừng của làng XôMan. Đó là niềm tự hào và đó cũng là phẩm chất anh hùng, trung dũng của người Strá.Có thể nói,mỗi người dân XôMan, từ già đến trẻ …đều là một chiến sĩ.Tiêu biểu cho tập thể nhân dân anh hùng ấy là những hình ảnh tiêu biểu cho từng thế hệ.
      1/Trước hết, là cụ Mết, một cụ già làng  60 tuổi, thủ lĩnh tinh thần của người dân Xô Man.
   - Cụ xuất hiện với một  dáng hình oai phong, lẫm liệt : “ râu dài tới ngực, mắt vẫn sáng và xếch ngược. Ông cụ ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn...”. Tiếng nóicủa cụ “ồ ồ dội vang trong lồng ngực”.
   - Tinh cách dứt khoát: chỉ một lời khen “Được!” của ông cụ cũng làm cho mọi người hả dạ.. là đại diện của quần chúng, là các gạch nối giữa Đảng và đồng bào dân tộc“cán bộ là Đảng, Đảng còn núi nước này còn”; “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.   - Trong những giờ phút trọng đại nhất giữa cáci chết và cái sống, Cụ Mết đã thay mặt Tnú lãnh đạo buôn làng nổi dậy đồng khởi, với “lưỡi mác dài trong tay....thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ Mết”.
à  Tóm lại, cụ Mết là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền thống và cội nguồn – là chỗ dựa tinh thần và là pho sử sống – là nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại của các thế hệ người dân Tây Nguyên. Hình ảnh cụ Mết trong đoạn cuối thể hiện rất rõ vị trí của con người này: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mội người phải tìm lấy một cây dáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót, không ....năm trăm cây chông. Đốt lửa lên”.
       2/Tiếp nối cụ Mết là Tnú - một chàng trai dũng mãnh, là niềm tự hào của buôn làng XôMan - nhân vật anh hùng, người con vinh quang của dân làng Xô Man được nhà văn khắc họa bằng những đường nét độc đáo, giàu chất sử thi:
  - TNú là người Strá, “cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.
  -  Tham gia liên lạc cho cách mạng từ nhỏ, Tnú là một người gan góc và táo bạo, dũng cảm và thông minh, giàu tự trọng (vào rừng cùng Mai tiếp tế cho anh Quyết, khi học chữ thua kém Mai thì lấy đá đạp vào đầu, khi bị bắt và bị tra tấn đã chỉ tay vào bụng mình và nói: Cộng sản ở đây...).  -, Tnú còn là một con người biết vươn lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân: Chứng kiến kẻ thù giết vợ con trong nỗi đau đớn và xót xa vô cùng Anh đã bất chấp sự can ngăn của cụ Mết xông ra giữa vòng vây của kẻ thù để cứu vợ con. Bị  bắt, Tnú chịu đựng sự tra tấn man rợ của kẻ thù, hai bàn tay bị đốt cháy,“mười ngón tay đã trở thành mười ngọn đuốc” anh vẫn không kêu van... Sau đó anh vẫn tham gia bộ đội để giết giặc trả thù cho người thân và quê hương.
 - Tnú có tính kỉ luật cao: Tuy nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng phải được cấp trên cho phép mới về, và chỉ về đúng một đêm như quy định trong giấy phép.  - Anh còn là người giàu tình thương yêu đối với mọi người; là con người chung của dân làng Xô Man, của dân Strá (cảnh Tnú trở về được người dân: già, trẻ, lớn, bé đón chào, yêu mến...).
   à Có thể nói, Tnú là điển hình cho số phận và con đường Cách mạng của dân làng Xô Man; những phẩm chất đẹp đẻ của người anh hùng Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cả làng Xô man từ già đến trẻ đều có những phẩm chất tương tự (gan dạ, kiên trung, anh hùng, yêu nước...).Dưới ngòi bút của Nguyễn Trung Thành,nhân vật TNú mang một vẻ đẹp huyền thoại,đậm chất sử thi.
     3/ Hình ảnh của Mai và Dít, tiêu biểu cho hình ảnh của người phụ nữ mới của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mỹ.:
     - Thuở bé, Mai đã vào rừng tiếp tế và bảo vệ cán bộ.Mai học chữ giỏi (ba tháng đọc được chữ,sáu tháng làm được tóan hai con số).Khi trở thành người vợ, người mẹ, Mai đã dũng cảm lấy thân mình để bảo vệ đứa con thơ và chị đã bất khuất hy sinh trước những trận mưa cây sắt của thằng Dục.
    -  Còn Dít (em gái của Mai), là một cô gái gan dạ, có tinh thần trách nhiệm cao, có bản lĩnh từ bé: liên lạc cho du kích, bị bắt, bị uy hiếp “đạn xượt qua tai, xém tóc, cày đất xung quanh cho hai chân nhỏ...đôi mắt... vẫn nhìn bọn giặc bình thản...” Dít chính là hiện thân và là sự tiếp nối của Mai: tự giác và quyết liệt trong cuộc đối mặt với kẻ thù.
    4/ bé Heng . chú bé nhanh nhẹn, thông minh, thuộc con đường và những hầm chông, những ác chiến điểm của làng mình như thuộc lòng bàn tay mình.Tuy chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc, đóng vai trò của người dẫn đường, nhưng hình của cậu bé lại hết sức ấn tượng.Bé Heng đã trưởng thành cùng với cuộc chiến đấu vũ trang của dân làng XôMan.  à  là  hình ảnh mang những nét tương đồng với lứa cây xà nu mới lớn…
I/ Kết bài:    Tóm lại, với “Rừng xà nu”, Nguyễn Trung Thành đã rất thành công trong việc khắc họa hình ảnh những nhân vật anh hùng, tập thể anh hùng vừa mang dấu ấn thời đại vừa đậm đà phong cách Tây Nguyên.
       - Tác phẩm dào dạt cảm hứng sử thi. Những nhân vật đại diện cho cộng đồng.....được ca ngợi bằng giọng văn say mê, trang trọng, hùng tráng. Cách xây dựng hình tượng của nhà văn cũng độc đáo: Dùng hình tượng cây xà nu làm biểu tượng cho sức sống mãnh liệt và sự tiếp nối của các thế hệ người dân Tây Nguyên đứng lên đánh Mỹ.
       - Từ cây xà nu đến con người, tất cả đều phi thường, đều mang đậm phẩm chất anh hùng, tượng trưng cho khí phách và sức sống phi thường của con người Tây Nguyên hùng vĩ.
 
 
13
 
 
@/ Đề 6:
Cảm nhận của anh/chị về người đàn bà hàng chài
trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
I/ Mở bài: 
    - Nguyễn Minh Châu được mệnh danh “là người mở đường tinh anh” cho công cuộc đổi mới văn học.Ông có nhiều tác phẩm viết về đời thường khiến cho người đọc phải trăn trở,day dứt.   - Đọc truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”- một tác phẩm tiêu biểu được ra đời năm 1983, thuộc giai đọan sáng tác thứ hai của Nguyễn Minh Châu, hình ảnh người đàn bà hàng chài : một người phụ nữ có số phận đau khổ, bất hạnh nhưng lại giàu đức hy sinh, lòng tự trong, tình thương con và thấu hiểu lẽ đời… đã để lại cho ta những ấn tượng sâu sắc, gợi những nhận thức thấm thía về con người và cuộc sống.
 II/Thân bài:  Thật vậy, người đàn bà hàng chài là người vùng biển, làm nghề chài lưới.Cả gia đình trên chục người chỉ bó hẹp trong một chiếc thuyền nhỏ, quanh năm lênh đênh, dập dềnh trên sông nước. Đó chính là nguyên nhân gây ra bao cay đắng, tủi nhục cho chị.    1/ Trước hết, theo cách kể của nhân vật Phùng,
   - Chị xuất hiện với một tên gọi phiếm định “người đàn bà” .Phải chăng, với cách gọi ấy , nhà văn đã giúp cho người đọc suy tư về số phận của người đàn bà khốn khổ ấy cũng như biết bao người phụ nữ khác, họ cũng đang rất khốn khổ , tồn tại thật tr

File đính kèm:

  • docNghi luan nhan vat.doc