Bài Tiểu luận vệ sinh sinh thái lần 2 - Phân tích ưu điểm, nhược điểm của một số công trình vệ sinh đã nghiên cứu

docx5 trang | Chia sẻ: minhhong95 | Lượt xem: 625 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài Tiểu luận vệ sinh sinh thái lần 2 - Phân tích ưu điểm, nhược điểm của một số công trình vệ sinh đã nghiên cứu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TIỂU LUẬN VỆ SINH SINH THÁI LẦN 2
ĐỀ BÀI:
Phân tích ưu điểm, nhược điểm của một số công trình vệ sinh đã nghiên cứu?
BÀI LÀM:
NHÀ VỆ SINH NÔNG THÔNG KHÔNG DÙNG NƯỚC
KHÁI QUÁT:
 KHÁI NIỆM:
 	Nhà vệ sinh không dùng nước hoặc hố xí khô (Waterless toilets/ Dry
sanitation) được hiểu là kiểu nhà vệ sinh mà sau khi sử dụng người ta không dùng
nước để dội rửa, có thể chỉ dùng vôi, tro bếp, tro cây, tro trấu hoặc đất bột để phủ
lên phân sau khi sử dụng. Loại nhà vệ sinh không dùng nước này thường áp dụng
cho các vùng nông thôn gặp khó khăn nguồn nước hoặc áp dụng cho vùng có tập
quán sử dụng phân và nước tiểu với mục đích làm phân bón cho cây trồng hoặc
dùng phân tươi để nuôi cá. Một số nơi, nhà vệ sinh được thiết kế để tách phân và
nước tiểu đi theo các đường dẫn khác nhau để xử lý. Ở hộc chứa phân, phân
người được trộn với các loại tro, đất và được các loại vi khuẩn và nấm phân hủy
trong điều kiện hiếu khí có sự tham gia của nhiệt độ, không khí và ẩm độ. Nhà vệ
sinh trên ao hồ hay cầu cá phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long được xem là
nhà vệ sinh không dùng nước mặc dầu loại hố xí này được làm ở vùng đất ngập
nước thường xuyên. Hầu hết các loại nhà vệ sinh không dùng nước đều có mục
tiêu chính là lấy phân để ủ, có tên là hố xí ủ phân hoặc hố xí tự hoại (Composting
toilet) . Loại nhà vệ sinh không dùng nước có những ưu và nhược điểm sau.
ƯU, NHƯỢC ĐIỂM:
Ưu điểm:
Rẻ tiền, chi phí xây dựng rất thấp.
Loại này thường đơn giản và dễ xây dựng.
Tiết kiệm được nước.
Không phải tốn công dùng nước để dội và rửa sau khi sử dụng.
Có thể sử dụng phân và nước tiểu như một nguồn cung cấp phân bón hoặc nuôi cá.
Phù hợp cho vùng khó khăn nguồn nước, vùng nông thôn nghèo.
Có thể sử dụng các vật liệu địa phương.
Nhược điểm:
Loại này không phải là công trình vệ sinh tốt, có nhiều khả năng lây nhiễm
	và phát tán các mầm bệnh cho cộng đồng.
Ít nhiều có mùi hôi và ruồi nhặng.
Có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nước và môi trường đất.
Khó sử dụng lâu dài, tuổi thọ công trình ngắn.
Thiếu tính thẩm mỹ.
Có thể sập sàn gây tai nạn cho người sử dụng nếu thiếu cẩn thận.
Ủ PHÂN COMPOST:
 KHÁI NIỆM:
Một cách đơn giản, compost được định nghĩa là một chất hỗn hợp từ các
	chất thải thực vật phân hủy và chất thải người và gia súc,  có thể sử dụng bon
	vào đất làm cho nó phì nhiêu hơn.
Thiết kế định hình các mẫu nhà vệ sinh nông thôn
Ủ phân compost là một biện pháp kỹ thuật nhằm biến các chất thải hữu cơ dễ
	phân hủy sinh học như phân người, phân gia súc, rơm rạ, cây cỏ, bùn, rác 
	thành chất mùn chứa nhiều chất vô cơ có thể sử dụng trong nông nghiệp, thủy
	sản và làm giảm thiểu sự ô nhiễm môi trường.
ƯU NHƯỢC ĐIỂM:
Ưu điểm:
Giảm thiểu ô nhiễm cho nguồn nước, đất và không khí, các chất hữu cơ
	biến đổi thành các chất vô cơ.
Diệt các mầm bệnh nguy hiểm do trong quá trình phân hủy sinh học, nhiệt
	độ trong hầm ủ gia tăng, có khi lên đến 60 oC làm tiêu hủy các trứng, ấu
	trùng, vi khuẩn, virus trong chất thải. 
Phân sau khi ủ có thể được sử dụng an toàn hơn phân tươi.
Phân sau khi ủ compost trờ thành một chất mùn hữu ích cho nông nghiệp như tăng độ 	phì nhiêu của đất giúp cây trồng hấp thu.
Tăng độ ẩm cần thiết cho đất trồng, giảm thiểu sự rửa trôi khoáng chất do các thành 	phần vô cơ không hòa tan trong phân ủ như NO3- và PO43-.
Giảm thể tích do trong quá trình ủ phân, sự mất hơi nước gia tăng do sự gia tăng 	nhiệt, điều này khiến mẻ phân khô và ráo nước hơn. 
Phân có thể tích nhỏ hơn sẽ giúp thuận lợi trong việc vận chuyển, thu gom và rải.
Nhược điểm:
Mặc dầu phần lớn vi khuẩn, virus bị tiêu diệt nhưng không phải hoàn toàn,
	đặc biệt khi sự ủ compost không đồng đều về thời gian, phương pháp,
	lượng ủ, . 
Một số mầm bệnh vẫn tồn tại có thể gây nguy hiểm cho người
	sử dụng.
Thành phần phân ủ thường không ổn định về chất lượng do thành phần
	nguyên liệu đưa vào không đồng đều.
Phải tốn thêm công ủ và diện tích.
Việc ủ phân thường ở dạng thủ công và lộ thiên tạo sự phản cảm về mỹ
	quan và phát tán mùi hôi. 
Trong khi đó các loại phân hóa học như urê,
	NKP, gọn nhẹ, tương đối rẻ tiền, chất lượng đồng đều và "sạch hơn" gây
	tâm lý thuận tiện cho việc sử dụng hơn phân ủ compost.
HỐ XÍ Ủ PHÂN 2 NGĂN KIỂU VIỆT NAM:
	Hố xí ủ phân 2 ngăn kiểu Việt Nam (The Vietnamese double-vaul composting latrine, gọi tắt là DVC) loại hố xí này được Bộ Y tế phổ biến trong một chiến dịch rộng rãi từ năm 1956 ở miền Bắc Việt Nam. Loại hố xí 2 ngăn được thiết kế để phân và nước tiểu thu gom riêng rẽ. Loại này đuợc xem là loại hố xí khô, yếm khí, không dùng nước hoàn toàn (Hình 2.1, Hình 2.2). 
Hình 2.1. Hố xí 2 ngăn kiểu Việt Nam( bên trái)
Hình 2.2. Hố xí này được áp dụng ở Mehico( bên phải)
Diện tích thông thường cho một nhà vệ sinh loại này khoảng 1,8 – 2,0 m2, được
xây bằng gạch nung thô, xây theo kiểu hộc cao chừng 0,8 m, có vách ngăn thành
2 hộc liền kề với nhau, mỗi hộc có dung tích khoảng 0,3 m3. Phía trên nắp hộc (xây bằng dale bê-tông) bố trí 2 bệ ngồi xổm đối xứng với nhau. Phân được xả trực tiệp vào hộc. Lỗ nhận phân được đậy bằng một cái nắp đậy có cán dài. Giữa 2 bệ xổm là
một rãng dẫn nước tiểu thoát ra ngoài và gom vào một các chậu hoặc bô sành. Ở
mỗi hộc có tấm cửa gỗ để đóng mở hộc chứa phân. Nền hộc có thể xây bằng
gạch, bê-tông hoặc đất nện. Hộc được xây cao ít nhất khỏi mặt đất là 10 cm để
ngăn nước ngập hoặc nước mưa tràn vào bên trong hộc.
Nhà vệ sinh được xây xa nơi chỗ ở hoặc nguồn nước tối thiểu 10 mét. Loại hố xí
2 ngăn này cũng được che chắn bằng các vật liệu xây dựng địa phương như tre,
cây, tranh, lá, ... Trước khi gom chất bài tiết, nền hộc được rải bằng một lớp đất
bột, vôi bột hoặc tro cây nhằm rút nước phân và ngăn việc thấm ướt nước ngập,
hạn chế mùi và ruồi nhặng. Sau mỗi lần sử dụng, người ta đổ phủ lên phân một
lớp tro hoặc đất bột.
Ưu điểm:
Rẻ tiền, chi phí xây dựng rất thấp.
Loại này thường đơn giản và dễ xây dựng.
Tiết kiệm được nước.
Không phải tốn công dùng nước để dội và rửa sau khi sử dụng.
Có thể sử dụng phân và nước tiểu như một nguồn cung cấp phân bón hoặc nuôi cá.
Phù hợp cho vùng khó khăn nguồn nước, vùng nông thôn nghèo.
Có thể sử dụng các vật liệu địa phương.
Nhược điểm:
Loại này không phải là công trình vệ sinh tốt, có nhiều khả năng lây nhiễm
	và phát tán các mầm bệnh cho cộng đồng.
Ít nhiều có mùi hôi và ruồi nhặng.
Có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nước và môi trường đất.
Khó sử dụng lâu dài, tuổi thọ công trình ngắn.
Thiếu tính thẩm mỹ.
Có thể sập sàn gây tai nạn cho người sử dụng nếu thiếu cẩn thận.
HỐ Ủ PHÂN “4 TRONG 1” KIỂU TÀU:
	Hố ủ phân “Bốn trong Một” kiểu Tàu (China “Four in One” composting) là
một cách thu gom phân để sử dụng làm phân bón đã được sử dụng hàng ngàn
năm nay ở Trung Hoa, có lúc phương pháp này đã được giới thiệu ở miền Bắc
Việt Nam trong nhiều năm trước đây. Bốn đối tượng thu gom để ủ ở đây là: (1)
chất bài tiết người; (2) phân gia súc (heo, bò); (3) đất và (4) rác.
Trong thập niên 50, khoảng 70% - 90% chất bài tiết người được thu gom sử dụng
làm phân bón và hằng năm đạt được chừng 300 triệu tấn (theo Dorozynski, 1975).
Đến nay, khoảng 1/3 phân bón sử dụng ở Trung Hoa là từ phân người và gia súc.
Ở các vùng nông thôn Trung Hoa, như vùng Quảng Châu, người ta dễ dàng bắt
gặp hình ảnh những con heo được nuôi thả ở dưới các bãi thu gom chất bài tiết
người như minh hoạ mô tả ở Hình 3.3. Phân ủ được vận chuyển bằng gánh hoặc
xe ba bánh. Theo tài liệu của Uno Winglad, lúc phong trào tập thể hóa rầm rộ năm
1956 tại Quảng Châu, Trung quốc, mỗi đêm có chừng 15.000 xã viên vùng nông
thôn tràn lên thành phố để thu gom phân người và đem về làng. Sự rơi vãi trong
quá trình vận chuyển đã gây tình trạng mất vệ sinh trên đường phố. Theo trị giá
phân bán ở Quảng Châu năm 1975, giá của đất phân (nightsoil) vào khoảng 3,40
đến 5,80 Nhân dân tệ tùy theo thành phần nước chứa trong phân (Mức lương một
người bình thường vào thời điểm này khoảng 60 - 70 Nhân dân tệ mỗi tháng).
HỐ XÍ THÙNG:
Hố xí thùng (the bucket latrine) là tên gọi chung để chỉ cách thu gom chất
bài tiết người qua thùng, giỏ, xô, bô, ... rồi đem đi đổ nơi khác (có hoặc không xử
lý trước khi đổ nơi khác). Hố xí thùng được làm bằng gỗ, có nắp đậy. Nơi đổ
thường là các hố đào sẵn, các vùng nước hoặc được ủ làm phân bón. Xô thùng
sau khi đổ sẽ được khuấy rửa sạch và tái sử dụng. Đây là cách người xưa làm
trước khi có hệ thống thoát nước thải như hiện này. Tuy vậy, cách cổ điển này
vẫn còn nhiều nơi áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới ở các nước đang phát triển,
không chỉ cho trẻ con và người già mới được áp dụng cách này mà cả cho người
lớn (Hình 3.1, Hình 3.2). Có lẽ hố xí thùng là dạng rẻ tiền nhất và có tính cơ động
cao để thu gom chất bài tiết người. Ở Trung hoa xưa, loại hố xí thùng rất phổ
biến, được áp dụng từ cung vua quan đến người dân dã. Hố xí thùng thường làm
bằng gỗ, hoặc gốm tráng men, sau này làm bằng nhựa plastic. Hố xí 2 ngăn ở
miền Bắc phổ biến nhiều năm trước kia, cũng là một dạng hố xí thùng.

File đính kèm:

  • docxtieu luan.docx