Bài dự thi Tìm hiểu 80 năm công đoàn Việt Nam - Trường Tiểu học Hiền Đa

doc23 trang | Chia sẻ: thuongnguyen92 | Lượt xem: 303 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài dự thi Tìm hiểu 80 năm công đoàn Việt Nam - Trường Tiểu học Hiền Đa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
C¤NG §OµN C¥ Së TR¦êNG TIÓU HäC hiÒn ®a
BµI Dù THI 
T×M HIÓU 80 N¡M 
C¤NG §OµN VIÖT NAM
Hä vµ tªn: §iªu Quang L©m
Chøc vô: Phã HiÖu tr­ëng
§¬n vÞ c«ng t¸c: Tr­êng TiÓu häc HiÒn §a
 Th¸ng 4 n¨m 2009
Câu hỏi 1: Đồng chí hãy cho biết, tổ chức Công đoàn Việt Nam được thành lập vào ngày, tháng, năm nào? Do ai sáng lập?
Trả lời:
Dưới ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng, tư tưởng Công hội đỏ của tổ chức Thanh niên, từ năm 1926 phong trào công nhân Việt Nam đang tiến tới thành lập chính đảng cách mạng và tổ chức quần chúng rộng lớn của giai cấp công nhân.
Ngay sau khi thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng quyết định thành lập Tổng Công hội đỏ Bắc kỳ vào ngày 28/7/1929 tại số nhà 15 phố Hàng Nón- Hà Nội. Tham dự đại hội có các đại biểu các Tổng Công hội tỉnh và thành phố: Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, khu mỏ Đông Triều, Mạo Khê.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Tổng Công hội đỏ do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, Uỷ viên Ban Chấp hành lâm thời Đảng Cộng sản Đông Dương đứng đầu. Đại hội cũng đã thông qua chương trình, Điều lệ của Công hội đỏ Việt Nam và quyết định cho xuất bản tờ Lao động (số đầu ra ngày 14/8/1929 do chính Nguyễn Đức Cảnh và Trần Học Hải phụ trách). Ban Chấp hành lâm thời còn có các đồng chí Trần Hồng Vân, Trần Văn Các, Nguyễn Huy Thảo và đặc biệt có đồng chí Trần Văn Lan (tức Giáp Cóc), một công nhân ưu tú của phong trào công nhân Nhà máy sợi Nam ĐịnhViệc ra mắt tổ chức Công đoàn đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam ngay lúc đó đã thu hút sự chú ý của Quốc tế Công hội đỏ của Đảng Cộng sản Pháp.
Có thể nói, việc thành lập Tổng Công hội đỏ Bắc kỳ có ý nghĩa hết sức to lớn đối với phong trào công nhân Việt Nam. Nó vừa là kết quả tất yếu của sự trưởng thành về chất lượng phong trào công nhân nước ta, vừa là thắng lợi của đường lối công vận của Nguyễn ái Quốc và đảng Cộng sản Đông Dương cũng như của phong trào yêu nước nói chung từ sau tháng 6-1925. Đồng thời cũng đáp ứng nhu cầu bức thiết về mô hình tổ chức của phong trào công nhân Việt Nam và đánh dấu sự hoà nhập của phong trào công nhân nước ta với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Câu hỏi 2: Đồng chí hãy cho biết từ khi thành lập đến nay Công đoàn Việt Nam đã trải qua mấy kỳ đại hội? Mục tiêu, ý nghĩa của các kỳ đại hội?
Trả lời:
Từ ngày thành lập đến nay Công đoàn Việt Nam đã trải qua 10 kỳ Đại hội,  mỗi đại hội đều gắn với một thời kỳ lịch sử , ghi nhận sự đóng góp xứng đáng của gia cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam đối với đất nước.
Đại hội lần thứ I: 01/1/1950-15/1/1950 tại xã Cao Vân, huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên.(Việt Bắc)
Đại hội lần thứ  II: 23/2/1961-27/2/1961 tại Hà Nội.
Đại hội lần thứ  III: 11/2/1974-14/2/1974 tại Hà Nội
Đại hội lần thứ IV: 8/5/1978-11/5/1978 tại Hà Nội.
Đại hội lần thứ V: 16/11/1983- 18/11/1983 tại Hà Nội
Đại hội lần thứ VI: 17/10/1988-20/10/1988 tại Hà Nội
Đại hội lần thứ VII: 9/11/1993-12/11/1993 tại Hà Nội.
Đại hội lần thứ  VIII: 03/11/1998 đến 6/11/1998 tại Hà Nội.
Đại hội lần thứ  IX: 10/10/2003-13/10/2003 tại Hà Nội.
Đại hội lần thứ  X: 02/11/2008- 05/11/2008 tại Hà Nội.
1. Đại hội lần thứ I: họp từ ngày 1/1/1950 đến ngày 15/1/1950, tại xã Cao Vân, huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Tham dự Đại hội có gần 200 đại biểu của giai cấp công nhân Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Đại Hội, trong thư Người nêu rõ “những việc chính mà Đại hội cần làm là:
- Tổ chức huấn luyện toàn thể công nhân trong vùng tự do và vùng tạm bị địch chiếm.
- Lãnh đạo công nhân xung phong thi đua ái quốc và chuẩn bị tổng phản công.
- Đi đến tổ chức toàn thể lao động bằng đầu óc cũng như lao động bằng chân tay.
- Giúp đỡ và lãnh đạo nông dân về mọi mặt.
- Liên lạc mật thiết với công nhân thế giới, trước hết là với công nhân Trung Hoa và công nhân Pháp.
Trong công việc kháng chiến và kiến quốc, trong sự nghiệp xây dựng nền dân chủ mới, giai cấp công nhân phải là người lãnh đạo”.
Những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá mục tiêu chính trị của Đại hội là: Công đoàn Việt Nam chiến đấu cho độc lập dân chủ và hoà bình.
Khẩu hiệu hành động là: “Động viên công nhân, viên chức cả nước, nhất là công nhân ngành Quân giới sản xuất nhiều vũ khí, khí tài phục vụ cho kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi”
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam gồm 21 uỷ viên chính thức, 4 dự khuyết, trong đó đồng chí Tôn Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch danh dự; đồng chí Hoàng Quốc Việt, Uỷ viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương Đảng làm Chủ tịch, đồng chí Trần Danh Tuyên được bầu làm Tổng thư ký. Ban Thường vụ Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam gồm có 5 đồng chí: Trần Danh Tuyên, Nguyễn Hữu Mai, Hoàng Hữu Đôn, Nguyễn Duy Tính và Trần Quốc Thảo.
Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ I là sự kiện có ý nghĩa, đánh dấu sự trưởng thành và lớn mạnh của phong trào công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam. Đồng thời Đại hội cũng xác định rõ vị trí, vai trò và nhiệm vụ của giai cấp công nhân Việt Nam trong công cuộc kháng chiến kiến quốc.
2. Đại hội lần thứ II: diễn ra từ ngày 23/2/1961 đến 27/2/1961 tại Thủ đô Hà nội. 
Đại hội đề ra nhiệm vụ trong giai đoạn này là: “ Đoàn kết, tổ chức giáo dục toàn thể công nhân viên chức phát huy khí thế làm chủ của quần chúng, làm cho quần chúng mau chóng nắm đựơc kỹ thuật tiên tiến để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, trước mắt là thi đua hoàn thành thắng lợi toàn diện và vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất Tổ quốc”.
Đại hội lần thứ II Công đoàn Việt Nam đã quyết định đổi tên Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam thành Tổng Công đoàn Việt Nam, bầu Ban Chấp hành gồm 54 đồng chí, Đoàn Chủ tịch gồm 19 đồng chí và bầu đồng chí Hoàng Quốc Việt làm Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam.
Khẩu hiệu hành động là: “ Động viên cán bộ công nhân, viên chức thi đua lao động sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc với tinh thần “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt” góp phần đấu tranh thống nhất đất nước”.
3.Đại hội lần thứ III: diễn ra từ ngày 11/2/1974 đến 14/2/1974 tại Thủ đô Hà Nội.
Nhiệm vụ chung đã được Đại hội xác định là: “Nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, chủ yếu là tư tưởng làm tập thể, ý thức làm chủ xã hội, làm chủ Nhà nước, phát huy vai trò làm chủ tập thể của công nhân, viên chức, động viên phong trào sôi nổi trong công nhân, viên chức thi đua lao động, sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, tham gia quản lý xí nghiệp, quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước, thực hiên ba cuộc cách mạng; thường xuyên nâng cao cảnh giác,sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, làm tròn nghĩa vụ đối với miền Nam ruột thịt; ra sức tăng cường đoàn kết chiến đấu và lao động với nhân dân Lào và Campuchia anh em; tiếp tục phấn đấu cho sự đoàn kết , thống nhất của lao động và phong trào Công nhân thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, cầm đầu là đế quốc Mỹ, chống bọn tư bản lũng đoạn, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”
Khẩu hiệu hành động là: : “Động viên sức người sức của chi viện cho chiến trường, tất cả để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”
Đại hội đã bầu 72 Uỷ viên chính thức, Đồng chí Tôn Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch danh dự Tổng Công đoàn Việt Nam, đồng chí Hoàng Quốc Việt được bầu làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam. Đ/c Nguyễn Đức Thuận là Tổng Thư ký.
4. Đại hội lần thứ IV: diễn ra từ ngày 8/5/1978 đến 11/5/1978 tại Thủ đô Hà Nội.
Đại hội đã xác định nhiệm vụ của Công đoàn trong nhiệm kỳ mới là:
“Bồi dưỡng năng lực và phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của công nhân, viên chức, dấy lên phong trào cách mạng rộng lớn thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, kết hợp xây dựng kinh tế quốc phòng, thường xuyên nâng cao tinh thần cách mạng, sẵn sàng làm tròn nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc; thực hiện đồng thời ba cuộc cách mạng; cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hoá, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt; tích cực hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam; thi đua lao động, sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, thi đua phục vụ nông nghiệp, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà, trước mắt là hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976- 1980), chăm lo đời sống và bảo vệ lợi ích chính đáng của công nhân, viên chức; ra sức đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Công đoàn; cải tiến tổ chức và phương pháp công tác nâng cao năng lực hoạt động, năng lực tham gia quản lý kinh tế, tham gia vào công việc của Nhà nước và kiểm tra hoạt động của Nhà nước; góp phần tăng cường đoàn kết và thống nhất của phong trào công nhân và của lao động thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới và các thế lực phản động khác, vì quyền lợi của người lao động, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, và chủ nghĩa xã hội”
Khẩu hiệu hành động là: “Động viên giai cấp công nhân và những người lao động khác thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá trong phạm vi cả nước”
Đại hội đã bầu BCH mới gồm 155 Uỷ viên. Đ/c Nguyễn Văn Linh, UV Bộ Chính trị Trung ương Đảng được bầu làm Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam. Đ/c Nguyễn Đức Thuận làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký.
5. Đại hội lần thứ V: diễn ra từ ngày 16/11/1983 đến ngày 18/11/1983 tại Thủ đô Hà Nội.
Đại hội khẳng định: tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chung của công đoàn  cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà Đại hội lần thứ tư  Công đoàn Việt Nam đề ra: “Bồi dưỡng năng lực và phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của công nhân, viên chức, dấy lên phong trào cách mạng rộng lớn thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, kết hợp xây dựng kinh tế với quốc phòng, thường xuyên nâng cao tinh thần cách mạng, sẵn sàng làm tròn nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc; thực hiện đồng thời ba cuộc cách mạng; cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hoá, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt; tích cực hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam; thi đua lao động, sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, thi đua phục vụ nông nghiệp, chăm lo đời sống và bảo vệ lợi ích chính đáng của công nhân, viên chức; ra sức đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Công đoàn; cải tiến tổ chức và phương pháp công tác nâng cao năng lực hoạt động, năng lực tham gia quản lý kinh tế, tham gia vào công việc của Nhà nước và kiểm tra hoạt động của Nhà nước; góp phần tăng cường đoàn kết và thống nhất của phong trào công nhân và của lao động thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới và các thế lực phản động khác, vì quyền lợi của người lao động, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, và chủ nghĩa xã hội”
Khẩu hiệu hành động là: “Động viên công nhân- lao động thực hiện 3 chương trình lớn của Đảng. Phát triển nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu”
Đại hội V Công đoàn Việt Nam đã sửa đổi bổ sung Điều lệ công đoàn Việt Nam, làm rõ hơn tính chất của công đoàn Việt Nam, mối quan hệ giữa công đoàn với các đoàn thể khác. Đồng thời bổ sung nhiệm vụ quốc tế đối với các nước bạn Lào, Campuchia. Đại hội đã quyết định lấy ngày 28/7/1929 ngày họp Đại hội thành lập Tổng Công hội đỏ miền Bắc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương làm ngày kỷ niệm thành lập Công đoàn Việt Nam.
Đại hội đã bầu BCH gồm 155 Uỷ viên. Ban Thư ký gồm 13 uỷ viên. Đ/c Nguyễn Đức Thuận Uỷ viên BCH Trung ương Đảng làm Chủ tịch. Đ/c Phạm Thế Duyệt làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Tổng Công đoàn Việt Nam.
6. Đại hội lần thứ VI: diễn ra từ ngày 17 đến 20/10/1988 tại Hà Nội
Đại hội đã xác định khẩu hiểu “Việc làm và đời sống, dân chủ và công bằng xã hội” là mục tiêu trong hoạt động của công đoàn các cấp.
Công đoàn phải động viên công nhân, lao động đi đầu trong việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, đồng thời kiên quyết đấu tranh thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, công bằng xã hội.
Đại hội đã quyết định đổi tên Tổng Công đoàn Việt Nam thành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Các chức danh Thư ký công đoàn gọi là Chủ tịch công đoàn, Đại hội bầu đồng chí Nguyễn Văn Tư- Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng – làm Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.
Đại hội VI công đoàn là Đại hội đổi mới của phong trào công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam.
Ngày 30/6/1990, Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 17 đã thông qua Luật công đoàn. Luật này thay thế Luật công đoàn đã công bố ngày 5/11/1957.
7. Đại hội lần thứ VII: họp từ ngày 09 đến ngày 12/11/1993 tại Hà Nội.
Năm 1992, Quốc hội khoá VII kỳ họp thứ 11 đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 10 Hiến pháp 1992 quy định rõ về vai trò, vị trí của tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Đại hội đánh giá cao phong trào công nhân, viên chức lao động trong tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh, phục vụ an ninh và quốc phòng, các cơ quan quản lý, nghiên cứu khoa học trong các trường học, bệnh viện, các đơn vị hành chính sự nghiệp, đã góp phần xứng đáng vào những thành tựu chung của đất nước, tô thắm thêm truyền thống yêu nước và cách mạng của giai cấp công nhân và tầng lớp tri thức Việt Nam.
Nghị quyết Đại hội VII Công đoàn Việt Nam khẳng định “Trong bước ngoặt đầy thử thách, giai cấp công nhân nước ta đã tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, vượt qua mọi khó khăn trong bước đầu chuyển sang cơ chế thị trường, hăng hái đi đầu trong công cuộc đổi mới, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh của đất nước, giữ vững ổn định về chính trị”.
 Đại hội xác định mục tiêu của hoạt động công đoàn trong những năm tới là:
“Đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn.
Góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chăm lo và bảo vệ lợi ích của công nhân lao động”.
Đồng chí Nguyễn Văn Tư- Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu lại làm Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.
8. Đại hội lần thứ VIII: Từ ngày 3 đến ngày 6/11/1998 tại Hà Nội.
Nghị quyết Đại hội khẳng định: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới tiếp tục đạt được nhiều thành tựu to lớn, trong đó sự đóng góp xứng đáng của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt NamĐội ngũ công nhân, viên chức, lao động đã tỏ rõ hơn bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nỗ lực vương lên lao động và công tácgiữ vai trò quyết định thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng, xứng đánh là giai cấp lãnh đạo cách mạng, lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”
Đại hội xác định mục tiêu và khẩu hiệu hành động của Công đoàn trong những năm tới là: “ Vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh”
Đồng chí Cù Thị Hậu- Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng được Đại hội bầu làm Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.
9. Đại hội lần thứ IX: Họp từ ngày 10 đến ngày 13/10/2003 tại Hà Nội.
Căn cứ Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, bám sát tình hình thực tiễn của đất nước, phong trào CNVC-LĐ và các chức năng của công đoàn đã được pháp luật quy định, trên cơ sở tổng hoạt động, phân tích rõ những kết quả, những khuyết điểm, yếu kém, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm của những nhiệm kỳ qua, mục tiêu và phương hướng tổng quát của tổ chức công đoàn trong nhiệm kỳ 2003-2008 được xác định như sau:
“Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới; củng cố và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước sôi nổi, rộng khắp, thiết thực và có hiệu quả trong CNVC-LĐ; tham gia quản lý, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVC-LĐ; đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức Công đoàn trong các thành phần kinh tế; nâng cao năng lực và trình độ cán bộ công đoàn ; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN”
Khẩu hiệu hành động của tổ chức Công đoàn trong thời kỳ mới là:
“Xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVC-LĐ, góp phần tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.”
Đại hội đã bầu lại đ/c Cù Thị Hậu làm Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.
10.Đại hội lần thứ X: họp từ ngày 2 đến ngày 5/11/2008 tại Hà Nội
Mục tiêu, phương hướng hoạt động công đoàn trong 5 năm (2008-2013)
“Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của công đoàn các cấp; hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy đoàn viên, công nhân, viên chức lao động làm đối tượng vận động; chuyển mạnh hoạt động công đoàn vào việc tổ chức thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động; xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước”
Khẩu hiệu hành động là:
“Đổi mới, sáng tạo; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động; vì sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước”
Đại hội đã bầu dồng chí Đặng Ngọc Tùng- Uỷ viên Trung ương Đảng làm Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.
Câu hỏi 3: Đồng chí hãy cho biết đại hội nào được đánh giá là đại hội đổi mới? Theo đồng chí, quan điểm "đổi mới" đó được phát triển như thế nào ở Đại hội X Công đoàn Việt Nam?
Trả lời:
Đại hội VI Công đoàn Việt Nam họp giữa lúc công nhân viên chức cùng toàn dân đang ra sức khắc phục khó khăn, phát triển sản xuất, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng nên có thể nói Đại hội VI Công đoàn Việt Nam là Đại hội đổi mới của phong trào công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam. Đại hội họp từ ngày 17 đến ngày 20/10/1988.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1980)- Đại hội mở đầu cho thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, đã phân tích những nguyên nhân căn bản dẫn đến khủng hoảng kinh tế- xã hội ở nước ta, và trên cơ sở đó, Đại hội xác định quan điểm và đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới về kinh tế.
“Muốn đưa nề kinh tế thoát khỏi tình trạng rối ren, mất cân đối, phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý.
Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”
Trong sự nghiệp cao cả đó, Đảng xác định tổ chức Công đoàn “có vai trò to lớn trong việc động viên các tầng lớp nhân dân, tham gia xây dựng, quản lý kinh tế, quản lý xã hội”, “Đảng cần tổng kết kinh nghiệm và ra nghị quyết về xây dựng giai cấp công nhân. Nhà nước cần bổ sung Luật Công đoàn”.
Động lực chủ yếu thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội trong kế hoạch 5 năm 1986-1990 không phải là đẩy mạnh đầu tư mà là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Nhà nước đã có nhiều chính sách để từng bước xác lập cơ chế quản lý mới. Trong nông nghiệp với cơ chế khoán theo hộ, hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, đã tạo ra bước phát triển đáng kể về sản xuất lương thực. Từ chỗ lương thực sản xuất không đủ dùng trở thành quốc gia xuất khẩu gạo. Thắng lợi đó có đóng góp quan trọng của đội ngũ công nhân viên chức trong những năm cuối thập kỷ 80.
Trong Công nghiệp, Quyết định số 217/HĐBT tháng 11/1987 đã tạo quyền tự chủ cho các doanh nghiệp quốc doanh. Các đơn vị doanh nghiệp quốc doanh thực hiện hạch toán độc lập lấy thu bù chi. Sản xuất công nghiệp tuy vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình chuyển đổi cơ chế, nhưng trong một số ngành công nghiệp then chốt đã đạt mức tăng trưởng khá. Sản lượng điện năm 1990 tăng 72,5% so với năm 1985. Sản lượng dầu thô đã tăng từ 40 ngàn tấn năm 1986 lên 2,7 triệu tấn năm 1990.
Với việc xoá bỏ chế độ 2 giá, áp dụng cơ chế giá thị trường, thương mại hoá tư liệu sản xuất và hàng hoá tiêu dùng cùng với những cải cách trong lĩnh vực tài chính, kinh tế đẩy mạnh sản xuất, tăng trưởng kinh tế, chúng ta đã kiềm chế và đẩy lùi được lạm phát. Nền kinh tế nhiều thành phần đã được phát huy trong một bước quá trình dân chủ hoá đời sống kinh tế- xã hội và giải phóng sức sản xuất. “Đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra và được triển khai trong kế hoạch 5 năm 1986-1990 là sự tìm tòi thử nghiệm, để vượt qua khó khăn, thoát khỏi khủng hoảng”
Gia cấp công nhân là lực lượng nòng cốt trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Năm 1987, công nhân viên chức chiếm 6% dân số, 16% lực lượng lao động xã hội nhưng đã sản xuất được 35,5% tổng sản phẩm xã hội, 27,3% thu nhập quốc dân và đóng góp cho Nhà nước 70,6% tổng ngân sách. Số lượng đoàn viên công đoàn từ 84% so với tổng số công nhân viên chức năm 1983 tăng lên 89,5% năm 1988.
Đại hội VI Công đoàn Việt Nam đã xác định khẩu hiểu “Việc làm và đời sống, dân chủ và công bằng xã hội” là mục tiêu trong hoạt động của công đoàn các cấp.
Công đoàn phải động viên công nhân, lao động đi đầu trong việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, đồng thời kiên quyết đấu tranh thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, công bằng xã hội.
Đại hội đã quyết định đổi tên Tổng Công đoàn Việt Nam thành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Các chức danh Thư ký công đoàn gọi là Chủ tịch công đoàn, Đại hội bầu đồng chí Nguyễn Văn Tư- Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng – làm Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.
Ngày 30/6/1990, Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 17 đã thông qua Luật công đoàn. Luật này thay thế Luật công đoàn đã công bố ngày 5/11/1957.
Điều 1 Luật công đoàn ghi rõ:
“1. Công đoàn là tổ chức chính trị- xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam (gọi chung là người lao động) tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam; là trường học chủ nghĩa xã hội của người lao động”
Luật công đoàn năm 1990 là cơ sở pháp lý để phát huy vai trò của công đoàn trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền dân chủ và lợi ích của người lao động trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vai trò, vị trí của tổ chức công đoàn đã được xác định rõ hơn trong hệ thống chính trị của nước Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Quan điểm đổi mới được phát triển ở đại hội X Công đoàn Việt Nam đó là: Trong mục tiêu phương hướng hoạt động, trong điều kiện đất nước ta hội nhập sâu với thế giới, như Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Vì vậy trong mục tiêu, phương hướng hoạt động công đoàn trong 5 năm tới (2008-2013) ghi rõ: 
Các nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp chủ yếu của Công đoàn trong giai đoạn này xác định rõ:
1- Đại diện, chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động.
2- Tuyên truyền, giáo dục công nhân, viên chức, lao động góp phần xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh. Triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động của Tổng Liên đoàn thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3- Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước trong công nhân, viên chức, lao động.
4- Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức công đoàn và đội ngũ cán bộ công đoàn
Câu hỏi 4: Đồng chí hãy nêu quan điểm của Đảng về xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước? 
Trả lời:
Nghị quyết nêu lên 5 quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về vấn đề này, đó là:
Thứ nhất, kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng, phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh của tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội; đồng thời tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với giai cấp công nhân trên toàn thế giớ

File đính kèm:

  • doc80 nam Cong doan.doc
Đề thi liên quan